Lời Kệ của Thiền Sư Mãn Giác

Monday, 25 February 20191:33 PM(View: 3829)
Lời Kệ của Thiền Sư Mãn Giác

II.- Lời Kệ của Thiền-sư Mãn-giác

Mặt khác, mỗi khi xuân sang, những người còn trẻ, còn sức lực, thì vui mừng đón xuân vì cho rằng xuân sẽ đem lại cho họ những cái hay, cái tốt, cái lạ, cái may mà năm qua họ không có, hay bị mất đi. Tuy nhiên, cũng có nhiều người, đại đa số là những người già, lại có thái độ bi quan, yếm thế hơn. Họ thấy rằng mỗi một mùa xuân tới thì họ lại già thêm một tuổi; hơn nữa, xuân lại đến quá nhanh khiến họ không sao trở tay kịp, vừa mới ngày nào "mang tiếng khóc bưng đầu mà ra" (Cung Oán Ngâm Khúc, câu 56), như lời Ôn-như-hầu Nguyễn-gia-Thiều (1741-1798), thế mà chưa chi đã lâm vào cảnh mà Tản-đà Nguyễn-khắc-Hiếu (1889-1939) mô tả là "cái già sồng sộc nó thì theo sau " (Chơi Xuân Kẻo Hết Xuân Đi, câu 84)

Thêm một mùa xuân là thêm một năm được thấy những đổi thay trong vũ trụ cũng như chung quanh họ. Tệ hơn nữa là tất cả những đổi thay này, họ không cách nào ngăn chặn được, không thể kìm hãm hay níu kéo lại được, vì họ quá bé nhỏ, chỉ là những hạt cát trong vũ trụ bao la bát ngát, vì họ thấy mình bị giam hãm trong một cái khung chật hẹp là quả đất nơi họ đang sinh sống và cái khung thời gian quá ngắn ngủi là cuộc đời trên dưới một trăm năm trong khi thiên nhiên lại vô hạn vô biên, vô thủy vô chung, vô cùng vô tận. Họ giống như Khổng-tử 孔子 (550-479 TCN) của Trung-quốc đã thốt lên lời "Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ!" 逝者如斯夫, 不舍晝夜 (Luận Ngữ, q. 9, ch. 16), nghĩa là "Trôi mãi như thế kia, ngày đêm không thôi!", khi đứng bên giòng sông nhìn thấy nước cứ trôi đi mãi về phía chân trời xa tắp mù khơi không bao giờ cùng tận, giống như giòng đời biến hóa (thiên địa chi hóa 天地之 化) mãi mãi không lúc nào ngừng.

Hoặc như Nguyễn-Du (1766-1820), họ đã phải thở than:

Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
 (Kiều, câu 3-4)

Đối với những người có thái độ này, thiền sư Mãn-giác (1051-1096) khuyên rằng tất cả mọi sự vật trong vũ trụ không có gì là vĩnh viễn cả, tất cả chỉ tại con người đã đem mình đối chiếu với vũ trụ và đem cái đoản sinh sánh với cái trường tồn, tất cả chỉ tại mình tự đặt mình đứng bên ngoài vũ trụ mà ngắm nhìn vũ trụ, không biết hội nhập vào vũ trụ thiên nhiên.

春去百花落,
春到百花開.
事逐眼前過,
老從頭上來.
莫謂春殘花落盡,
庭前昨夜一枝梅.

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Sau đây là bản dịch bằng thơ Việt ngữ của Ngô-tất-Tố (1894-1954):

Xuân trỗi trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi!
Đừng tưỏng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước, một cành mai.

Bài thơ dịch thứ hai, theo thể lục bát, là của Tản-đà Nguyễn-khắc-Hiếu:

Xuân đi muôn vạn hoa tàn
Xuân về thắm lại ngập tràn những hoa
Việc đời thế sự đi qua
Trên đầu tuyết điểm một vài cọng sương
Chờ cho xuân hết hoa tàn
Đêm qua sân trước nở vàng cành mai.

Người dịch thứ ba là Thiền sư Thích Thanh Từ:

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua – sân trước – một cành mai.

Người dịch thứ tư là Lê-mạnh-Thát (s. 1944).

Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười.
Việc đời qua trước mắt,
Già đến trên đầu rồi !
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một cành mai.

Trong quan niệm của thiền sư Mãn-giác, chúng ta không nên quá bi quan trước sự tuần hoàn của vũ trụ thiên nhiên, không nên quan tâm tới cảnh xuân đến thì hoa nở, xuân đi thì hoa tàn, cũng như sự đời trôi qua trước mắt vô cùng tận và đem đến cái già trên đầu mình. Thực vậy, chúng ta đừng nên nghĩ là lúc xuân tàn tất cả mọi bông hoa đều rụng hết, cây cối trở nên trơ trụi, bởi vì vừa mới đêm qua thôi ở trước sân đã có một cành hoa mai nở rồi. Cành hoa mai ở đây tiêu biểu cái bất sinh bất diệt của vũ trụ thiên nhiên mà nếu con người cố gắng tu luyện thì sẽ có thể vượt ra khỏi sự tuần hoàn của thiên nhiên để hội nhập vào cái trường tồn của vũ trụ.

Chúng ta đừng nên có thái độ như con người mà thi nhân Trung-quốc Trần Tử-ngang 陳子昂 (659-700) diễn tả trong bài thơ Đăng U-châu Đài Ca
登幽州臺 歌:

前不見古人,
後不見來者.
念天地之悠悠,
獨愴然而涕下.

Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Độc thương nhiên nhi thế hạ.

Trần-trọng-San đã dịch bài thơ này sang thơ Việt ngữ, theo thể song thất lục bát, nhan đề Bài Ca Lên Đài U-châu.

Ngoảnh lại trước: người xưa vắng vẻ;
Trông về sau: quạnh quẽ người sau.
Ngẫm hay trời đất dài lâu,
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.

Nói cách khác, con người phải biết gạt bỏ sự phân biệt ngoại giới với nội giới, cái ta và vũ trụ, phải biết cảm thông với vũ trụ thiên nhiên, nghĩa là đem cái đoản sinh của mình hòa với cái trường tồn của vũ trụ thiên nhiên, đem cái cục hạn của mình nhập vào cái bao la bát ngát, vô hạn vô biên của vũ trụ thiên nhiên. Được như vậy thì đâu còn sống chết, quá khứ, vị lai nữa mà phải đau buồn cho những gì đã qua đi, mất đi, cũng như phải lo âu cho sự gì sẽ tới, lo cho cái già đổ trên đầu mình, lo cho xuân tàn hoa rụng, bởi vì trong cái tiêu điều của xuân tàn hoa rụng đó đã có một cành mai hé nở làm vui lòng người rồi. Vì thế chúng ta chỉ nên quan tâm đến cái hiện diện của vũ trụ vĩnh cửu, thường hằng, vô thủy vô chung thôi. Được như vậy thì chúng ta sẽ thấy mọi sự ở trên thế gian này chỉ là huyễn ảo, mộng ảo, không đáng cho chúng ta phải quyến luyến nữa.