Bài 01-10

Sunday, 31 May 202011:51 AM(View: 2812)
Bài 01-10

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 1
PHÁP MÔN CĂN BẢN

I. TOÁT YẾU


Mùlapariyàya Sutta - The root of all things
.


The Buddha analyses the cognitive processes of four types of individuals - the untaught ordinary person, the disciple in higher training, the arahant and the Tathàgata. This is one of the deepest and most difficult suttas in the Pali Canon, and it is therefore suggested that the earnest student read it only in a cursory manner on a first reading of the Majjhima Nikàya, returning to it for an in-depth study after completing the entire collection
.


Gốc rễ của vạn pháp.


Phật phân tích tiến trình nhận thức của bốn hạng người: phàm phu chưa nghe pháp, bậc hữu học, A la hán và Như lai. Kinh này là một trong những kinh sâu sắc và khó hiểu nhất trong tạng kinh Pali, bởi thế đề nghị học giả nghiêm túc sau khi đọc qua một lần đầu, hãy đọc trở lại kinh này khi đã xem trọn 152 kinh.


II. TÓM TẮT


Gốc rễ của đau khổ là dục hỷ: ham muốn, vui thích đối với các pháp từ vật chất đến tinh thần, từ phàm đến thánh, từ bốn đại đến hạng sinh vật, người, chư thiên, các cõi thiền, và Niết bàn.


Về các pháp ấy, có những cách nhận thức khác nhau tùy theo trình độ tu học: lối nhận thức sai lầm của phàm phu gọi là tưởng tri, của người biết qua sách vở là thức tri, của bậc thánh hữu học là thắng tri, của A la hán là tuệ tri. Và cuối cùng, cái biết của Phật là liễu tri.


Phàm phu tưởng tri các pháp, ví dụ địa đại, như sau:

1. Vị ấy nghĩ tự ngã là địa đại; 

2. Nghĩ tự ng
ã ở trong địa đại; 

3. Nghĩ tự ng
ã tách biệt với địa đại; 

4. Nghĩ "địa đại l
à của ta."


Như thế là không liễu tri địa đại. Về các pháp khác cũng thế, bao gồm:


Chúng sinh, Chư thiên, Sinh chủ, Phạm thiên, Quang âm thiên, Biến tịnh thiên, Quảng quả thiên, Thắng giả, Không vô biên xứ cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, kiến văn giác tri, Đồng nhất và sai biệt, Tất cả, Niết bàn.


Đối với 4 đại và các pháp khác, các bậc hữu học không có thái độ tưởng tri của phàm phu, nghĩa là: 

1. Vị ấy không nghĩ tự ngã là địa đại; 

2. Không nghĩ tự ng
ã ở trong địa đại; 

3. Không nghĩ tự ng
ã tách biệt với địa đại; 

4. Không nghĩ "địa đại l
à của ta ", không dục hỷ địa đại.

Các bậc A la hán đối với các pháp trên thắng tri một cách sâu xa, nghĩa là biết đúng thực chất vô thường khổ vô ngã của chúng, nên gọi là liễu tri các pháp. A la hán không dục hỷ niết bàn vì đã liễu tri niết bàn; hơn nữa, vì đã tận trừ tham, sân và si.


Đức Như lai không tưởng tri địa đại… niết bàn như kiểu phàm phu, không dục hỷ các pháp, vì đã liễu tri dục hỷ là nguồn gốc của đau khổ. Lại nữa, nhờ liễu tri lý duyên khởi, Ngài đã tận trừ ái thủ vì biết nó sẽ đưa đến hữu, sinh và già chết.


III. CHÚ GIẢI


Tham, mạn, kiến
: Khi một người do thấy, nghe… mà đâm ra tham luyến tái sinh làm một hạng chúng sinh nào đó, ấy gọi là "tham". Khi người ấy tự xếp hạng mình là hơn, bằng hoặc thua kẻ khác, ấy là "mạn". Và khi có quan điểm rằng chúng sinh là thường hoặc vô thường, đó gọi là "kiến". Thái độ tưởng tri của phàm phu đưa đến tham, mạn, kiến như sau:


Nghĩ tự ngã ở trong địa đại (Định sở cách, Locative): dẫn đến "mạn"


Nghĩ tự ngã tách biệt với địa đại (Xuất xứ cách, Ablative): dẫn đến "kiến"


Nghĩ "địa đại là của ta" (Sở thuộc cách, Genitive), dục hỷ địa đại: dẫn đến "tham"


Chúng sinh
, nghĩa là tất cả sinh vật dưới cõi trời Tứ thiên vương.


Chư thiên
: sáu cõi trời dục giới.


Sinh chủ
, ám chỉ Ma vương thống lĩnh tất cả sinh loài.


Phạm thiên
 hay Đại phạm - Mahàbramhma, vị trời sinh ra trước nhất trong mỗi đại kiếp, thọ mạng ngang bằng với thọ mạng vũ trụ trong đại kiếp ấy. Các vị tu chứng sơ thiền cũng tái sinh vào cõi này.


Quang âm thiên
: cõi của nhị thiền. Ở đây bao gồm cả trời Thiểu quang và Vô lượng quang.


Biến tịnh thiên
: cõi của tam thiền. Ở đây bao gồm trời Thiểu tịnh và Vô lượng tịnh.


Quảng quả thiên
: cõi của tứ thiền.


Thắng giả
 (Abhibhù) chỉ cõi trời Vô tưởng, vì ở đây không còn 4 uẩn vô sắc.


Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ
 là 4 cõi trời vô sắc.


Kiến văn giác tri
: những gì được thấy, nghe, cảm giác và nhận thức, mà gọi là "tưởng tri " (sai lầm), là khi có chấp thủ "tôi " và "của tôi ", hoặc có phát sinh mạn, tham và kiến.


Đồng nhất và sai biệt
: những vị tu thiền khi tâm đạt đến một cảnh giới duy nhất không biến đổi, thì chấp là "đồng nhất ". Những người không chứng đắc thì chấp có nhiều cảnh khác nhau. Loại tưởng tri "đồng nhất " sản sinh triết học nhất nguyên và tôn giáo nhất thần, loại tưởng tri "sai biệt " sản sinh triết học đa nguyên, tín ngưỡng đa thần.


Tất cả
: chỉ tất cả các pháp nói trên, gom chung lại thành một khối. Tưởng tri về tất cả có thể sản sinh các thuyết phiếm thần hoặc nhất thần, tùy theo tương quan giữa cái tôi và tất cả.


Niết bàn
: chỉ 5 loại niết bàn hiện tại, chủ trương của 62 tà kiến ngoại đạo được nói trong kinh Phạm Võng, Trường bộ: thụ hưởng các khoái lạc giác quan là niết bàn, bốn cõi thiền là niết bàn. Mong cầu, hưởng thụ năm thứ này là tham, kiêu hãnh khi đạt được là mạn, xem loại niết bàn ảo tưởng đó trường cửu, là kiến.


IV. PHÁP SỐ 

Bốn đạiđịa, thủy, hỏa, phong.


Bốn Không định hay Bốn Vô sắc
: Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi tưởng phi phi tưởng.


V. KỆ TỤNG

Gốc rễ của đau khổ
L
à hỷ tham các pháp
Vật chất và tinh thần
Pháp phàm và pháp thánh:
Bốn đại và ba cõi
Cùng "niết bàn hiện tại ".
Sở dĩ có hỷ tham
Vì tưởng tri bốn đại
C
ùng tất cả pháp khác
Là "tôi " và "của tôi ".

Nhờ liễu tri các pháp
Không "tôi ", không "của tôi "
Như lai không dục hỷ
Bất cứ một pháp nào.

Phăng tận nguồn khổ đau:
Ái thủ đưa đến Hữu
Từ Hữu, có Sinh, Gi
à
Bệnh, chết và sầu ưu.

Do liễu tri như vậy
Từ bỏ mọi ái dục
Tận trừ tham, mạn, kiến
Đạt vô thượng an ổn.


-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 2

TẤT CẢ LẬU HOẶC

I. TOÁT YẾU


Sàbbàsava Sutta - All the taints
.

The Buddha teaches the Bhikkhus seven methods for restraining and abandoning the taints, the fundamental defilements that maintain bondage to the round of birth and death.


Tất cả nhiễm ô
.


Phật dạy các tỷ kheo bảy phương pháp để chế ngự và từ bỏ ô nhiễm, tức những phiền não căn bản cứ tiếp tục trói buộc con người vào chu kỳ sinh tử.


II. TÓM TẮT


Có hai cách tác ý các pháp (hay để tâm suy tư về một việc gì): Như lý và không như lý. Như lý là khi tác ý, lậu hoặc chưa sinh không sinh, đã sinh được trừ diệt. Không như lý tác ý là khiến cho lậu hoặc chưa sinh phát sinh ra, lậu hoặc đã sinh thì tăng trưởng.


Bảy cách đoạn trừ là: bằng tri kiến, bằng phòng hộ, bằng thọ dụng, bằng kham nhẫn, bằng tránh né, bằng trừ diệt, bằng tu tập.


III. CHÚ GIẢI


Lậu hoặc
 hay ô nhiễm gồm ba loại: dục lậu, hữu lậu, và vô minh lậu. Loại 1 trói buộc con người vào khoái lạc giác quan, loại 2 vào tư tưởng quan niệm, và loại 3 vào sinh tử luân hồi nói chung.


Đoạn trừ bằng Tri kiến
 là không để ý chuyện không đáng để ý, và chỉ tác ý những gì cần tác ý. Pháp của Như lai dạy là cốt cho người biết tác ý như lý và thấy rõ những gì không đáng tác ý. Không đáng tác ý là những vấn đề liên hệ đến bản ngã trong quá khứ, hiện tại, vị lai, nguồn gốc của sáu tà kiến như sau:


1. "Ta có tự ngã " - "self exists for me": thuyết duy linh, thuộc thường kiến.


2. "Ta không có tự ngã " - "no self exists for me": thuyết duy vật, cho chỉ có thể xác, chết là hết.


3. "Do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã " - "I perceive self with self": chấp "ngã " gồm cả hai, linh hồn và thể xác.


4. "Do tự mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã " - "I perceive not-self with self": chấp "ngã " chỉ là phần hồn.


5. "Không do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã " - "I perceive self with not-self": chấp "ngã " chỉ là phần xác.


6. "Chính tự ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này chỗ kia, chính tự ngã ấy của ta là thường trú không chuyển biến ": "It is this self of mine that speaks and feels and experiences here and there the result of good and bad actions; but this self of mine is permanent… no subject to change" Một dạng hoàn toàn chấp hữu, chấp thường.


Bị trói buộc bởi những tà kiến ấy, phàm phu không thoát khỏi sinh già chết sầu bi khổ ưu não. Ngược lại, thánh đệ tử nhờ tác ý như lý "đây là khổ " đây là nguyên nhân khổ "đây là khổ diệt " "đây là con đường đưa đến diệt khổ "… mà ba kiết sử được trừ diệt là thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Đấy gọi là đoạn trừ bằng tri kiến.


Đoạn trừ bằng phòng hộ
 là giữ gìn chính niệm khi sáu căn tiếp xúc sáu trần.


Đoạn trừ bằng thọ dụng
 là biết đủ đối với bốn vật dụng ăn mặc ở bệnh.


Đoạn trừ bằng kham nhẫn
 là hoan hỷ chịu đựng những cảm giác khó chịu về thân tâm.


Đoạn trừ bằng tránh né
 là tránh những người, vật, nơi chốn nguy hiểm, có thể làm phát sinh phiền não.


Đoạn trừ bằng trừ diệt
 là không chấp nhận cho dục niệm, sân niệm, hại niệm khởi lên, diệt trừ chúng ngay trong mầm mộng.


Đoạn trừ bằng tu tập
 là thường tu tập bảy giác chi: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả. Trong bảy pháp, niệm hay chính niệm cần luôn luôn có, sáu pháp còn lại thuộc vào hai nhóm: trạch pháp tinh tấn hỷ thuộc "động", khinh an định xả thuộc "tĩnh". Khi tâm lừ đừ, nên tu tập các pháp động, khi tâm quá hăng, nên tu các pháp tĩnh để châm chước, như thợ luyện vàng.


IV. PHÁP SỐ 


Hai cách tác ý
: như lý và phi như lý.


Hai nhẫn
: nhẫn sự chịu khó về thân và về tâm.


Ba lậu hoặc
: [lậu: lọt; hoặc: mê lầm] dục, hữu, vô minh.


Bốn vật dụng
: về ăn mặc ở bệnh.


Sáu căn môn
: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.


Bảy cách trừ hoặc
: tri kiến, phòng hộ, thọ dụng, kham nhẫn, tránh né, trừ diệt, tu tập.


Bảy giác chi
: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả.


V. KỆ TỤNG

Muốn tận trừ nhiễm ô
Phải biết rõ thấy rõ:
Biết tác ý như lý
Thấy gì "không như lý ".

"Như lý" là cách nghĩ
Khiến ô nhiễm không sinh
Lại có thể diệt trừ
Nhiễm ô đã sinh khởi.

Có bảy cách trừ mê:
Tri kiến và phòng hộ
Thọ dụng và kham nhẫn
Tránh né và trừ diệt
Giác chi là thứ bảy.

Đoạn trừ nhờ phòng hộ
Là gìn giữ sáu căn
Tức giữ g
ìn cửa "ý"
Khi tiếp xúc sáu trần.

Đoạn trừ bằng thọ dụng
Là biết đủ không tham
Bốn vật dụng cần d
ùng
Cốt vượt qua biển khổ.

Đoạn trừ bằng kham nhẫn:
Những thống khổ khốc liệt
Do người, vật gây nên
Vui nhận không than oán.

Đoạn trừ nhờ tránh né
Tránh mạo hiểm du hành
Tránh giao du bất đáng
Th
ì phiền não không sinh.

Đoạn trừ bằng trừ diệt
Những ý xấu khởi lên
Liên hệ dục, sân, hại
Tỳ kheo phải dứt liền.

Tu tập bảy giác chi
Hướng ly tham, từ bỏ
Đoạn trừ các ô nhiễm
Là diệt tận khổ đau.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 3

THỪA TỰ PHÁP

I. TOÁT YẾU


Dhammadàyàda Sutta - Heir in the dhamma
.


The Buddha enjoins the Bhikkhus to be heirs in the Dhamma, not heirs in material things. The venerable Sàriputta then continues on the same theme by explaining how disciples should train themselves to become the Buddhás heir in the Dhamma
.


Những người thừa kế Chính pháp
.


Phật khuyến khích chư tỳ kheo hãy là những người thừa hưởng gia tài Pháp của Ngài chứ không phải thừa hưởng của cải vật chất. Sau đó tôn giả
Xá lợi phất tiếp tục đề t
ài này bằng cách giải thích làm thế nào các đệ tử cần phải tu tập để trở thành những vị thừa kế của Phật trong lĩnh vực Pháp.


II. TÓM TẮT


Phật nói kinh này vì có nhiều tỳ kheo khởi tâm ưa thích danh dự lợi dưỡng mà quên việc tu tập viễn ly. Ngài thường thao thức mong sao đệ tử Ngài sẽ là những người thừa kế Pháp thay vì thừa kế vật chất. Nếu đệ tử trở thành kẻ thừa kế vật chất thì cả thầy lẫn trò đều mang tiếng. Người nào y theo lời Phật dạy mà hành trì, sống thiểu dục tri túc, thì dễ nuôi, đáng được kính nể.


Tiếp theo, tôn giả Xá lợi phất triển khai lời dạy vắn tắt của Phật như sau. Có hai trường hợp: một là đạo sư sống viễn ly mà đệ tử không học theo; hai là đệ tử học theo bậc đạo sư sống viễn ly, gồm ba việc: 1. Thực hành viễn ly; 2. Từ bỏ những gì Phật dạy cần phải từ bỏ; 3. Không sống buông lung, lười biếng. Tỳ kheo nào, dù thuộc hàng thượng tọa thâm niên, hay trung tọa, hay hạ tọa mới tu, nếu làm ba việc ấy là đáng tán thán, làm ngược lại thì đáng quở trách.


Các pháp cần từ bỏ gồm 16
:


Tham, sân, phẫn nộ, hiềm hận, 
giả dối, não hại, tật đố, xan lẫn,
man trá, phản bội, ngoan cố, bồng bột,
ng
ã mạn, tăng thượng, tự kiêu, phóng dật.


III. CHÚ GIẢI


Viễn ly 
gồm ba là: thân viễn ly, tức cư trú nơi núi rừng; tâm viễn ly là thiểu dục tri túc; hữu viễn ly là xa lìa tham đắm ba cõi.


Về 16 pháp,
 bản Anh ngữ: 


- Greed, hate, anger, revenge
- contempt 
(khinh miệt), domineering attitude (thống trị), envy, avarice 
- deceit, fraud, obstinacy, presumption 
- conceit, arrogance, vanity,negligence
.


Đấy là những pháp mà bậc đạo sư dạy đệ tử cần phải từ bỏ, vì chúng làm nên những người thừa tự tài vật.Từ bỏ chúng, đào luyện tám chính đạo thì sẽ thành những người thừa tự Pháp của Ngài, hướng đến niết bàn tịch tịnh.


IV. PHÁP SỐ


Ba việc đáng quở trách nơi đệ tử
: bậc Đạo sư sống viễn ly, đệ tử không học theo; những gì đạo sư dạy từ bỏ đệ tử không từ bỏ; sống dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng viễn ly.


Ba việc đáng tán thán 
là học theo bậc Đạo sư, sống viễn ly; từ bỏ những gì Phật dạy từ bỏ; không lười biếng mà bỏ rơi gánh nặng đọa lạc, dẫn đầu về viễn ly.


Ba viễn ly
: thân, tâm và hữu.

Thánh đạo tám ngành: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tiến, Chánh niệm, Chánh định.


V. KỆ TỤNG


1. Đệ tử thừa kế Pháp
Hơn thừa tự vật chất
Nếu chỉ thừa hưởng vật,
Làm mang tiếng cả thầy.

2. Thừa tự Pháp nghĩa là
Những gì Phật dạy bỏ
Đệ tử hãy từ bỏ,
Tức là mười sáu pháp:
tham lam và giận dữ
phẫn nộ và hiềm hận
giả dối và não hại
tật đố và xan lẫn
man trá và phản bội
ngoan mê và bồng bột
ngã mạn và tăng thượng
phóng dật v
à tự kiêu.

3. Từ bỏ mười sáu pháp
Đào luyện tám thánh đạo
Xứng kẻ thừa tự Pháp
Hưởng Niết b
àn an vui.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 4

SỢ HÃI VÀ KHIẾP ĐẢM

I. TOÁT YẾU


Bhayabherava Sutta - Fear and dread
.


The Buddha describes to a bradhmin the qualities required of a monk who wishes to live alone in the forest. He then relates an account of his own attempts to conquer fear when striving for enlightenment
.


Phật mô tả cho một bà la môn biết những đức tính cần thiết mà một tỳ kheo phải hội đủ nếu muốn sống độc cư ở rừng núi. Rồi Ngài kể lại cách Ngài chinh phục sự sợ hãi khi Ngài đang còn nỗ lực để đạt giác ngộ.


II. TÓM TẮT


Bà la môn Janussoni đến thăm Phật trong rừng Kỳ đà và ca tụng Phật đã giúp ích nhiều cho các tỳ kheo, vì quả thực rất khó kham nhẫn đời sống ở rừng núi. Theo ông, rừng núi làm rối loạn tâm trí tỳ kheo nào chưa chứng các thiền. Phật xác nhận lời nói của bà la môn, và dạy sở dĩ tỳ kheo khó kham nhẫn đời sống viễn ly ở núi rừng, nổi lên sợ hãi, là vì còn có 16 ô nhiễm:


- không thanh tịnh thân, khẩu, ý, mạng;

- nhiều tham dục, sân hận ác ý, hôn trầm, trạo cử;

- hoài nghi, khen mình chê người, run rẩy sợ hãi, ham lợi;

- lười biếng, thất niệm, tán loạn, ngu đần.


Phật không có những lỗi như trên mà có những đức ngược lại, nên Ngài rất an ổn khi sống ở rừng núi. Phật cho biết lúc còn tu tập, vào những đêm không trăng, Ngài cố đến những nơi nổi tiếng nhiều ma để thử. Mỗi khi cơn sợ hãi nổi lên, Ngài vẫn giữ nguyên tư thế để diệt trừ nỗi sợ trong tâm. Ngài không làm như người ta thường làm mỗi khi bị khiếp đảm là đổi tư thế (như bỏ chạy), hoặc tưởng tượng đêm là ngày, vì Ngài cho đó là hành động si ám. Ngài là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng nhân loại và chư thiên.


Nhờ chân chính quán sát bản thân không lỗi, Ngài cảm thấy tự tin khi sống ở núi rừng, tinh tấn tu tập chứng bốn thiền và ba minh. Canh một, Ngài chứng Túc mạng trí, nhớ được tất cả đời trước của mình; canh hai chứng Thiên nhãn minh, thấy sự sống chết của tất cả chúng sinh tùy theo hành nghiệp, gọi là Sinh tử trí hay Tùy nghiệp thú trí. Và cuối cùng canh ba Ngài chứng Lậu tận minh, hoàn toàn giải thoát, thành Phật.


Sau khi đạt thành chính giác, Phật vẫn cư trú trong rừng núi vì hai lý do: tự thân Ngài cảm thấy thoải mái, và vì lòng thương tưởng hậu lai (nêu gương).


III. CHÚ GIẢI


IV. PHÁP SỐ 


Ba nghiệp
: [hành động cố ý về] thân, lời, ý.

Ba minh [trí]: túc mạng, sinh tử [còn gọi thiên nhãn minh, hay tùy nghiệp thú trí], lậu tận.

Ba độc: tham, sân, si.

Bốn thiền 

Bốn chân lý 

Năm triền cái: tham dục, sân, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi.


V. KỆ TỤNG


1. Muốn đắc các thiền chứng
V
à đoạn tận vô minh
Cần núi rừng nương ở
Với mười sáu điều kiện:
Thân, khẩu, ý, thanh tịnh
Cách sinh hoạt thanh tịnh,
Không tham, sân, ít ngủ,
Không trạo cử, ho
ài nghi
Không khen mình chê người,
Không sợ hãi, hám lợi;
Không lười biếng, thất niệm,
Không tán loạn, ngu đần.

2. Phật chân chính quán sát
Bản thân được như tr
ên
Nên Ngài không sợ hãi
Khi độc cư rừng núi.
Nhờ tinh tấn h
ành thiền
Ngài chứng được ba minh:
Canh một chứng túc mạng
Nhớ hết các đời trước
Đại cương và chi tiết.
Canh hai chứng thiên nhãn
Sống chết và nghiệp báo
Của các hạng chúng sinh
Phật đều thấy tận tường.
Canh ba chứng lậu tận
Liễu tri cả bốn đế
Như tối diệt, sáng sinh.
Sau khi Ng
ài đắc đạo
V
ì thương tưởng hậu lai
Vì hiện tại lạc trú
Phật vẫn ở núi rừng.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 5

KHÔNG UẾ NHIỄM

I. TOÁT YẾU


Anangana Sutta - Without blemishes
.


The venerable Sàriputta gives a discourse to the Bhikkhus on the meaning of blemishes, explaining that a bhikkhus becomes blemished when he falls under the sway of evil wishes
.


Không lỗi lầm
.


Tôn giả Xá lợi phất giảng cho các tỳ kheo ý nghĩa của cấu uế - hay lỗi lầm - giải thích rằng một tỳ kheo có lỗi khi vị ấy bị thao túng bởi những ước muốn xấu.


II. TÓM TẮT


Có 4 hạng người trên đời:


1. Có cấu uế mà không tự biết;

2. Có cấu uế và như thật biết mình có cấu uế;

3. Không cấu uế nhưng không tự biết;

4. Không cấu uế và biết như thật mình không cấu uế.


Trong hai hạng có cấu uế, hạng tự biết hơn người không tự biết. Vì khi có cấu uế mà không tự biết, vị ấy sẽ chết mang theo những cấu uế còn nguyên vẹn; nhưng nếu tự biết còn cấu uế, vị ấy sẽ khởi lên ước muốn tinh tấn diệt trừ cấu uế và sẽ từ trần với tâm không còn ô nhiễm. Như người có cái bát dơ, lại bỏ quên nó vào nơi bụi bặm thì càng ngày càng dơ. Ngược lại nếu thấy bát dơ, chủ nhân đem lau chùi không để vào nơi bụi bặm, thì bát càng ngày càng sáng sạch.


Trong hai hạng không cấu uế cũng vậy. Hạng không cấu uế nhưng không tự biết một cách như thật là mình không cấu uế, thì có thể có lúc do tiếp xúc sắc đẹp mà nổi tham, quên quán thân bất tịnh, gọi là "tư niệm tịnh tướng" và từ đó tham, sân làm ô nhiễm tâm vị ấy. Như một cái bát sạch mà chủ nhân không biết dùng, lại liệng nó vào chỗ bụi bặm thì dần dà nó sẽ thành bát dơ. Người không cấu uế và như thật tuệ tri mình không cấu uế, thì sẽ không tư niệm tịnh tướng, luôn quán bất tịnh nên tham không làm ô nhiễm tâm vị ấy. Vị ấy sẽ từ trần với tâm không còn ô nhiễm. Như chủ nhân một cái bát sạch nhờ biết nó sạch nên siêng lau chùi, giữ gìn không để nó lẫn lộn với rác rưởi.


Do vậy, trong bốn hạng người thì hai hạng "có biết" là hơn hai hạng kia.


Tiếp đến tôn giả kể ra những gì gọi là cấu uế nơi tỳ kheo: đó là các suy tư bất thiện liên hệ đến dục, như vị tỳ kheo nổi lên phẫn nộ bất mãn khi thầm mong nhiều chuyện mà toàn gặp chuyện trái lại: khi có phạm giới, thầm mong đừng ai biết; mong các tỳ kheo quở trách mình tại chỗ kín đáo đừng công khai; nếu bị cử tội công khai, mong người quở trách phải là người ngang hàng. Tại giảng đường, thầm mong Phật hỏi mình nhiều lần, đừng hỏi ai khác. Vào xóm khất thực, thầm mong chúng tỷ kheo để mình dẫn đầu; thầm mong mình được chỗ tốt nhất, thực phẩm tốt nhất; mong các tỷ kheo để cho mình phát biểu sau khi ăn xong tại nhà gia chủ [thuyết tùy hỷ pháp]. Khi đại chúng nhóm họp trong tịnh xá, thầm mong họ mời mình thuyết pháp cho chúng tỷ kheo, tỳ kheo ni, nam hoặc nữ cư sĩ. Thầm mong được chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni, nam, nữ cư sĩ tôn trọng lễ bái cúng dường mình chớ không phải ai khác. Thầm mong mình được tứ sự cúng dường loại tốt nhất.


Tất cả những mong mỏi như trên, cùng với sự bất mãn phẫn nộ do cái khổ "cầu không được" đều gọi là cấu uế, là cảnh giới của dục.

Nơi tỳ kheo nào chưa diệt trừ các cấu uế, thì dù vị ấy là người sống ở rừng, tu đủ thứ khổ hạnh, vẫn không được các vị đồng phạm hạnh cung kính tôn trọng.

Người ấy được ví như một cái bát bề ngo
ài đẹp đẽ nhưng đựng toàn thứ dơ bẩn gớm ghiếc như xác rắn xác chuột. Trái lại một tỳ kheo dù sống gần làng mạc, không tu khổ hạnh, nhưng đã diệt trừ cấu uế, thì vẫn được cung kính tôn trọng, như một cái bát đẹp lại chứa toàn thực phẩm ngon lành.


III. CHÚ GIẢI


IV. PHÁP SỐ 


Ba độc
: tham sân si.

Ba nghiệp: thân, ngữ, ý.

Bốn hạng người: hai hạng có và hai hạng không cấu uế.


V. KỆ TỤNG


A. Bốn hạng người

1. Đời có bốn hạng người:
Có lỗi mà tự tri,
Có lỗi, không tự tri
Không lỗi cũng gồm hai
Tự biết, không tự biết.

2. Hạng "có biết" là hơn:
Như cái bát dơ dáy
Chủ biết mà lau chùi
Thì sẽ thành bát sạch.
Cũng thế, người có lỗi
Tự biết, lo sửa đổi
Sẽ th
ành người trong sạch
Chết mang theo nghiệp lành.

3. Có lỗi không tự biết
Như bát dơ càng dơ
Vì lâu ngày không rửa;
Người xấu không tự biết
Chết mang theo xấu xa.

4. Người tốt không tự biết
Lại giao du bạn xấu
Đam mê theo thanh sắc
Lâu ngày thành kẻ hư.
Như cái bát trong sáng
Mà đem liệng đống rác
Hoặc chứa to
àn thứ dơ
Đi đời cái bát sạch.

5. Người tự biết không lỗi
Lo tư quán bất tịnh
Không rơi v
ào tham, sân
Chết với tâm vô nhiễm.
Như cái bát trong sáng
Chủ lại siêng lau chùi
Không để bám bụi bặm
C
àng ngày càng sáng trong.

B. Cấu uế của tâm:

6. Các ác bất thiện pháp
Và cảnh giới của dục
Ấy gọi là đồng nghĩa
Với cấu uế của tâm.

7. Thầm mong đợi một đường
Việc xảy ra một nẻo
N
ên phẫn nộ bất mãn
Đây gọi là cấu uế.

8. Khi lỡ phạm giới tội
Cầu mong đừng ai biết
Người biết, b
èn nổi sân
Đây gọi là cấu uế.

9. "Mong họ quở trách ta
Chỗ kín đáo một chút
Chớ đừng giữa công khai"
Sự xảy ra ngược lại
Bị quở trách giữa tăng
Đương sự bèn nổi sân
Đây gọi là cấu uế.

10. "Ước chi người đồng đẳng
Quở trách tội lỗi m
ình"
Thực tế không được vậy
Bị người dưới chơi leo
Hậm hực, l
òng bất mãn
Đây gọi là cấu uế.

11. Tại giảng đường, học Pháp
Thầm mong thầy gọi m
ình
Thầy lại gọi người khác
Lòng bất mãn không vui
Đây gọi là cấu uế.

12. "Mong ta được dẫn đầu
Khi v
ào làng khất thực,"
Hóa ra người dẫn đầu
Lại l
à tỳ kheo khác,
Mình bất mãn không vui
Đây gọi là cấu uế.

13. "Mong tại nơi thọ thực
Ta ngồi chỗ tốt nhất
Được thức uống tốt nhất
Và thực phẩm hảo hạng."
Một tỳ kheo khác được
Những g
ì ta thầm mong
Ta phẫn nộ, bất mãn
Đây gọi là cấu uế.

14. "Mong sau khi ăn xong
Ta thuyết t
ùy hỷ pháp"
Nhưng sự tình xảy ra
Là tỳ kheo khác thuyết;
Ta phẫn nộ, bất mãn
Đây gọi là cấu uế.

15. Khi bốn chúng tụ tập
Tại một ngôi tịnh xá
Tỳ kheo ấy thầm mong
Mình được mời giảng pháp
Nhưng sự t
ình xảy ra
Một tỳ kheo khác giảng;
Ta phẫn nộ, bất mãn
Đây gọi là cấu uế.

16. "Mong ta được bốn chúng
Lễ bái v
à cúng dường"
Nhưng một tỳ kheo khác
Đã được địa vị ấy
Ta phẫn nộ, bất m
ãn
Đây gọi là cấu uế.

17. "Mong ta sẽ có được
Những vật dụng tối thắng
Về tứ sự cúng dường"
Nhưng người được, ta không
Ta phẫn nộ, bất m
ãn
Đây gọi là cấu uế.

18. Nơi vị tỳ kheo nào
Chưa đoạn trừ cấu uế
D
ù có tu khổ hạnh
Cũng không đáng tôn sùng.
Nơi vị tỳ kheo nào
Đã đoạn trừ cấu uế
D
ù không tu khổ hạnh
Cũng đáng được tán dương.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 6

ƯỚC NGUYỆN

I. TOÁT YẾU


Àkankheyya Sutta - If a bhikkhu wish
.


The Buddha begins by stressing the importance of virtue as the foundation for a bhikkhu’s training; he then goes on to enumerate the benefits that a bhikkhu can reap by properly fulfilling the training.


Tỳ kheo nên cầu mong những gì
.


Mở đầu, Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của giới, nền tảng việc tu tập của một tỳ kheo. Kế đến Ngài kể ra những lợi lạc mà một tỳ kheo có thể gặt hái được nhờ viên mãn các học giới.


II. TÓM TẮT


Trước hết, Phật nhấn mạnh về Giới vì là căn bản tu hành. Nếu tỳ kheo có những ước nguyện như: Mong được các vị đồng tu yêu kính; mong được tứ sự cúng dường; mong thí chủ được phước lớn khi cúng dường mình; mong bà con lúc lâm chung chỉ cần nghĩ đến mình cũng có quả báo lợi lạc. Mong nhiếp phục được lạc khổ, không bị lạc và khổ làm động tâm; nhiếp phục sợ hãi khiếp đảm; mong chứng 4 thiền 4 định vô sắc; mong diệt trừ được ba kiết sử chứng quả Dự lưu; mong chứng Nhất lai; Bất hoàn; mong chứng các thần thông như thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, tùy nghiệp thú trí, mong diệt trừ lậu hoặc.


Muốn thành tựu các ước nguyện ấy, tỳ kheo cần phải "thành tựu viên mãn giới, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh."


III. CHÚ GIẢI


Trong lời dạy này, Phật đã tóm thâu cả ba vô lậu học:

"Thành tựu viên mãn giới" là Giới học.
"Kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định" là Định học.
"Thành tựu quán hạnh" là Tuệ học.

Còn "thích sống tại các trú xứ không tịnh" là điều kiện để có thể hoàn thành các mục tiêu vừa kể.


IV. PHÁP SỐ 


Ba kiết sử
: thân kiến, nghi, Giới cấm thủ. Trừ ba kiết sử đắc quả Dự lưu, không còn đọa lạc, chắn chắn giải thoát.


Ba vô lậu học
: Giới, định, tuệ.


Bốn giải thoát tịch tĩnh
 hay bốn không, bốn tịch tịnh trú: Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi tưởng phi phi tưởng, là bốn thiền chứng thuộc vô sắc giới.


Bốn quả sa môn
: Dự lưu, Nhất lai (diệt ba kết sử, muội lược tham sân si, chỉ còn trở lại một lần trên đời này), Bất hoàn (không trở lui đời này), A la hán sạch hết ô nhiễm vi tế.


Bốn vật dụng
 hay tứ y: vật dùng về ăn mặc ở bệnh.


Bốn thiền
: Gọi là hiện tại lạc trú, gồm sơ thiền với 5 thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm; nhị thiền bỏ tầm tứ; tam thiền bỏ hỷ; tứ thiền bỏ lạc, chỉ còn xả niệm thanh tịnh.


Sáu thông
: Thần túc, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, thiên nhãn và lậu tận; là ba minh nói rộng.


V. KỆ TỤNG


1. Đấng đạo sư nhắc nhủ
Tỳ kheo sống ph
òng hộ
Với Giới biệt giải thoát
Với chính niệm, uy nghi
Và thấy được hiểm nguy
Trong từng lỗi nhỏ nhặt
Bởi v
ì Giới dẫn đầu
Trong tất cả thiện pháp.

2. Nếu tỳ kheo ước nguyện:
"
Được pháp hữu yêu kính";
"Được bốn vật cần dùng";
Và "mong thí chủ mình
Sẽ được quả báo lớn"
H
ãy viên mãn Giới luật,
Thích sống nơi nhàn tịnh
Và siêng tu thiền định
Để thành tựu tuệ quán.

3. Nếu tỳ kheo ước nguyện:
"Mong bà con dòng họ
Lâm chung nghĩ đến mình
Với tâm niệm hân hoan
Sẽ được phước báo lớn"
Nếu tỳ kheo ước nguyện:
"Mong sợ h
ãi khổ vui
Không sợ hãi khiếp đảm"
H
ãy viên mãn Giới luật,
Thích sống nơi nhàn tịnh
Và siêng tu thiền định
Để thành tựu tuệ quán.

4. Nếu tỳ kheo ước nguyện
"Mong ta chứng bốn thiền
Được hiện tại lạc trú"
"Mong ta chứng bốn Không
Thành tựu tịch tịnh trú"
Hãy viên mãn Giới luật
Thích sống nơi nhàn tịnh
Và siêng tu thiền định
Để thành tựu tuệ quán.

5. Nếu tỳ kheo ước nguyện
"Mong ta chứng Dự lưu
Diệt trừ ba kiết sử"
"Mong ta chứng Nhất lai
Muội lược tham sân si"
"Mong ta chứng Bất hoàn
Trừ năm "hạ kiết sử"
H
ãy viên mãn Giới luật,
Thích sống nơi nhàn tịnh
Để thành tựu tuệ quán.

6. Nếu tỳ kheo ước nguyện
"Mong ta chứng thần thông
Biến hóa theo nhiều cách"
"Mong ta chứng thiên nhĩ
Nghe đủ tiếng gần, xa"
"Mong ta chứng túc mạng
Biết các đời quá khứ"
"Mong ta chứng thi
ên nhãn
Thấy sống chết chúng sinh"
Nếu tỳ kheo ước nguyện
"Mong ta chứng lậu tận
Đạt tâm, tuệ giải thoát
Ngay trong đời hiện tại"
H
ãy viên mãn Giới luật,
Thích sống nơi nhàn tịnh
Và siêng tu thiền định
Để thành tựu tuệ quán.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 7

VÍ DỤ TẤM VẢI

I. TOÁT YẾU 


Vatthùpama Sutta - The simile of the cloth
.


With a simple simile the Buddha illustrates the difference between a defiled mind and a pure mind


Bằng một ví dụ đơn giản, Phật nói rõ sự khác nhau giữa một tâm ô nhiễm và một tâm thanh tịnh. 


II. TÓM TẮT 


Cõi xấu ác chờ đợi một tâm ô nhiễm, như một tấm vải dơ đem nhuộm sẽ có màu loang lổ không đẹp. Ngược lại, cõi tốt lành chờ đợi một tâm không ô nhiễm, ví như tấm vải sạch khi nhuộm sẽ có màu đẹp đẽ. 


Những cấu uế của tâm là


- tham, sân, phẫn, hận,
- hư ngụy, não hại, tật đố, xan tham,
- man trá, khi cuống, ngoan cố, cấp tháo,
- mạn, quá mạn, ki
êu, phóng dật.


Tỳ kheo nào biết được những cấu uế của tâm để diệt trừ, vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối nơi Phật, Pháp, thánh chúng. Nơi vị ấy có sự từ bỏ, diệt trừ, giải thoát, xả ly, chứng được nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, được sự hân hoan liên hệ đến Pháp. Do hân hoan, có hỷ, do hỷ có khinh an, do khinh an có lạc, do lạc có định. Một vị tỳ kheo có giới như vậy, pháp như vậy, tuệ như vậy, thì dù ăn gạo thơm và các thực phẩm ngon lành cũng không vì vậy mà bị chướng ngại (vì đã dứt lòng tham vị ngon). Vị ấy có thể tu tập các phạm trú từ bi hỷ xả, tu các thiền định, đạt đến tâm giải thoát tuệ giải thoát của bậc A la hán. Tỳ kheo ấy được gọi là đã tắm rửa với sự tắm rửa nội tâm.


Phật nói câu sau cùng là cốt nhắm đến bà la môn Sundarikabharadvaja ngồi cách Ngài không xa. Quả nhiên ông ta liên tưởng đến nghi lễ tắm sông để tẩy tội trong tín ngưỡng của mình, và hỏi Phật có tắm sông Bahuka không, vì sông này đem lại nhiều công đức. Khi ấy Phật nói lên một bài kệ đại ý rằng, không có sông nào rửa sạch được quả báo nơi kẻ đã tạo ác nghiệp, đã gây tội lỗi; tắm để rửa tội là một tục lệ mê tín. Đối với người sống thanh tịnh thì ngày nào cũng tốt lành; vậy chỉ nên tắm trong tịnh nghiệp mới được sống an vui. 


Bà la môn sau khi nghe kinh này, xin được xuất gia với Phật, và không bao lâu ông chứng thánh quả, thành một bậc A la hán. 


III. CHÚ GIẢI 


Theo bản Anh, 16 cấu uế là: 


1. Covetousness and unrightous greed; 2. ill will; 3. anger; 4. Revenge; 5. contempt; 6. domineering attitude; 7. envy; 8. avarice; 9. deceit; 10. fraude; 11. obstinacy; 12. presumption; 13. conceit; 14. arrogance; 15. vanity; 16. negligence


-
 tham dục bất chính, ác ý, sân, hận, khinh miệt, thống trị, ngoan cố, tư phụ, kiêu căng, hợm hĩnh, khoe khoang, lơ đễnh. 


Sớ giải nói 16 cấu uế trên được từ bỏ tuần tự như sau: 


- Dự lưu đạo từ bỏ các cấu uế từ 5 - 10; 
- Bất hoàn đạo từ bỏ thêm các cấu uế 2, 3, 4 và 16. 
- A la hán đạo từ bỏ nốt sáu cấu uế còn lại.


IV. PHÁP SỐ 


Ba lậu
: dục, hữu, vô minh.


Ba ngôi báu
: Phật, Pháp, Tăng. 


Bốn đôi tám vị
: bốn quả sa môn và bốn đạo: Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. 


Bốn phạm trú hay vô lượng tâm
: Từ, bi, hỷ, xả. 

V. KỆ TỤNG 


1. Như vải dơ đem nhuộm 
Sẽ có m
àu không đẹp
Cũng vậy c
õi ác dữ
Chờ đợi tâm cấu uế
Như vải sạch đem nhuộm
Sẽ có m
àu thuần tịnh
Cũng vậy cõi tốt lành
Chờ đợi tâm hiền thiện.

2. Mười sáu cấu uế tâm
Cần biết để tẩy trừ:
T
à tham và giận dữ
Phẫn uất và hiềm hận,
hư ngụy và não hại,
tật đố và xan tham
man trá và khi cuống,
ngoan cố và cấp tháo
ngã mạn và thượng mạn
kiêu căng và phóng dật.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 8

ĐOẠN GIẢM

I. TOÁT YẾU


Sallekha Sutta - Effacement
.


The Buddha rejects the view that the mere attainment of the mediative absorptions is effacement and explains how effacement is properly practised in his teaching
.


Viễn ly
.


Phật bác bỏ quan điểm cho rằng chứng đắc các thiền đã là viễn ly [hay đoạn giảm], và giải thích cách tu tập đoạn giảm [đọan phiền não, giảm vô minh] thực sự trong giáo lý Ngài.


II. TÓM TẮT


Tôn giả Mahacunda bạch Phật, trên đời có nhiều quan điểm liên hệ đến ngã hoặc thế giới. Người mới tác ý có thể từ bỏ ngay những kiến chấp ấy không?


Phật dạy, muốn diệt trừ kiến chấp phải như thật quán sát năm uẩn "không phải của tôi, không phải là tôi, không phải tự ngã của tôi."


Sau khi trả lời câu hỏi của tôn giả Mahacunda, Phật nói đến những cách hiểu sai lạc về đoạn giảm. Những vị chứng đắc bốn thiền tự cho thế là sạch cấu uế, nhưng Phật dạy đấy gọi là "hiện tại lạc trú " chứ không phải đoạn giảm trong giới luật của Ngài. Những vị chứng bốn định vô sắc hay 4 không cũng tự cho là sạch cấu uế, nhưng đấy chỉ là "tịch tịnh trú " trong giới luật Ngài, chưa phải là đoạn giảm. Rồi Ngài dạy thế nào là đoạn giảm thật sự. Đó là từ bỏ 44 cấu uế (bản Anh ngữ không có 33, 34).


Muốn diệt trừ cấu uế, trước hết là khởi tâm làm ngược lại các thói xấu đã kể trên, vì sự khởi tâm rất có lợi cho các thiện pháp. Đấy là pháp môn khởi tâm.


Mỗi thói ấy đều có một đức ngược lại với nó, nên dùng đức ấy để đối trị, như lấy bố thí đối trị xan tham. Đấy là pháp môn đối trị. Trong khi tất cả bất thiện đều hướng hạ, thì cái ngược lại với chúng là hướng thượng; ví dụ với người xan tham thì có pháp bố thí để đưa mình đi lên. Đấy là pháp môn hướng thượng. Đối với người làm hại, không làm hại đưa đến hoàn toàn giải thoát [với tất cả cấu uế khác cũng vậy]. Đấy là pháp môn hoàn toàn giải thoát.


III. CHÚ GIẢI


Đoạn giảm
 Từ Pali "Sallekha" - đoạn giảm - nguyên nghĩa là khổ hạnh, trong kinh này có nghĩa là sự từ bỏ hay tận diệt cấu uế, nhiễm ô.


Các quan điểm
đấy là 20 quan điểm về ngã, được kể trong kinh số 44; 8 quan điểm về thế giới, như thường, vô thường, hữu biên vô biên…


"Người mới tác ý " ở đây ám chỉ người ở giai đoạn đầu của thiền quán, chưa vào Dự lưu đạo.


Sự từ bỏ đề cập ở đây là sự trừ diệt tận gốc các kiến chấp khi đã đạt đến Dự lưu đạo.


Như thật quán sát
 năm uẩn "không phải tôi, của tôi hay tự ngã của tôi" là tuệ quán đưa đến Dự lưu đạo.


44 cấu uế
: 1. Tác hại; 2. Sát sinh; 3. Lấy của không cho; 4. Tà hạnh; 5. Nói dối; 6. Hai lưỡi; 7. Nói độc ác; 8. Nói phù phiếm; 9. Tham; 10. Sân; 11. Tà kiến; 12. Tà tư duy; 13. Tà ngữ; 14. Tà nghiệp; 15. Tà mạng; 16. Tà tinh tiến; 17. Tà niệm; 18. Tà định; 19. Tà trí; 20. Tà giải thoát; 21. Hôn trầm; 22. Trạo hối; 23. Nghi hoặc; 24. Phẫn nộ; 25. Oán hận; 26. Hư ngụy; 27. Não hại; 28. Tật đố; 29. Xan tham; 30. Man trá; 31. Khi cuống; 32. Ngoan cố; [33. Cấp tháo; 34. Mạn]; 35. Quá mạn; 36. Khó nói; 37. Ác hữu; 38. Phóng dật; 39. Bất tín; 40. Vô tàm; 41. Vô quý; 42. Nghe ít; 43. Biếng nhác; 44. Thất niệm; 45. Liệt tuệ; 46. Nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, khó hành xả.


Có thể tóm thâu 44 cấu uế này vào sáu nhóm
:


A. Mười bất thiện nghiệp về thân khẩu ý (từ 2 - 11);

B. Bảy phần cuối của 8 phi thánh đạo (12 - 18);

C. T
à trí, tà giải thoát (19 - 20; tức ngược lại với hai chi cuối trong mười thánh đạo);

D. Ba triền cái cuối trong năm triền cái (21 - 23);

E. Mười trong 16 cấu uế của tâm đ
ã nói trong kinh số 7 (24 - 35);

F. Bảy thói xấu ngược lại với 7 đức là tín, tàm, quý, đa văn, tinh tấn, niệm, tuệ nói trong kinh 53.


IV. PHÁP SỐ 


Bốn thiền 

Bốn không, hay bốn vô sắc 

Bốn pháp môn: khởi tâm, đối trị, hướng thượng, giải thoát.

Năm triền cái 

Bảy thánh tài: tín, tàm, quý, đa văn, tinh tấn, niệm, tuệ.

Mười bất thiện nghiệp: gồm sát đạo dâm, 4 ngữ nghiệp và ba ý nghiệp là tham, sân, tà kiến.

Mười thánh đạo, tám chánh đạo thêm hai là chánh trí và chánh giải thoát.


V. KỆ TỤNG


1. Chẳng phải tu khổ hạnh
Mà gọi là đoạn giảm
Chẳng phải chứng bốn thiền
M
à gọi là đoạn giảm
Chẳng phải chứng bốn Không
M
à gọi là đoạn giảm
Bốn thiền trong pháp Phật
Gọi l
à "hiện tại lạc"
Còn bốn định vô sắc
Gọi l
à "tịch tịnh trú".
Nghĩa của sự đoạn giảm
trong giáo pháp Như lai
L
à trừ tâm uế nhiễm
Để đoạn ác, giảm ngu.

2. 
Đoạn giảm được thực hiện
Khi bỏ mười bất thiện
Của thân, lời v
à ý;
Từ bỏ tám tà đạo
T
à trí, tà giải thoát;
Bỏ hôn trầm, trạo cử
Từ bỏ nghi, bất tín
Vô tàm và vô quý
Nghe ít và biếng nhác
Thất niệm và đần độn
Phẫn nộ v
à oán hận;
Hư ngụy và não hại;
Tật đố và xan tham;
Man trá và khi cuống;
Ngoan cố và cấp tháo;
Mạn, quá mạn, khó nói
Ác hữu và phóng dật;
Nhiễm trước thói thế tục
Cố chấp ý kiến mình
Và tính khó hành xả.

3. Người nào tâm hết sạch
Tất cả ô nhiễm này
Dù có ăn vị ngon
Cũng không th
ành chướng ngại.
Tâm biến mãn mười phương
Với từ bi hỷ xả
Thoát khỏi các lậu hoặc
Sanh tận, phạm hạnh thành

4. Ấy gọi là tắm rửa
Bằng gột rửa nội tâm
Kẻ ngu tưởng tắm sông
Tẩy trừ được tội lỗi
Nhưng sông n
ào rửa được
Những nghiệp ác đ
ã làm
Đừng mê tín dị đoan
Để tha hồ tạo ác.

5. Với người sống thanh tịnh
Không tạo mười bất thiện
Không cần sông tẩy tội
Ngày nào cũng tốt lành.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 9

CHÍNH TRI KIẾN

I. TOÁT YẾU


Sammàditthi Sutta - Right view
.


A long and important discourse by the venerable Sàriputta, with separate sections on the wholesome and unwholesome, nutriment, the four Noble Truths, the twelve factors of dependent origination, and the taints
.


Cái thấy chân chính
.


Một bản kinh dài và quan trọng do tôn giả Xá lợi phất thuyết giảng, với nhiều đoạn tách biệt nói về thiện và bất thiện, về thức ăn, về Bốn chân lý cao cả, về 12 nhân duyên và các ô nhiễm.


II. TÓM TẮT


Tôn giả Xá lợi phất giảng về 16 pháp môn nhờ đó một thánh đệ tử được gọi là có sự thấy biết chân chính.


1. Tuệ tri bất thiện và gốc rễ của bất thiện; thiện và gốc rễ của thiện:


Khi tuệ tri như trên, vị thánh đệ tử đoạn trừ tất cả tùy miên tham, sân, nhổ tận gốc kiến chấp và kiêu mạn "tôi là ", đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Như thế vị ấy được gọi là người có tri kiến chính trực, có lòng tin tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.


2. Tuệ tri thức ăn, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt thức ăn.


Ở đây cần hiểu "thức ăn" theo nghĩa rộng, là yếu tố chính làm cho sinh tử tiếp nối không dứt.


3. Tuệ tri Khổ: Khổ, Tập khởi của khổ, đoạn diệt của khổ và con đường đưa đến đoạn diệt khổ.


Khổ là sinh, già, bệnh, chết, và tất cả khổ đau trong cuộc tồn sinh khi đã có ra năm uẩn.


Tập khởi của khổ là ái đưa đến tái sinh, cùng với hỷ và tham, tìm cầu khoái lạc chỗ này chỗ kia. Đoạn diệt của khổ là ly tham, không còn dư tàn các loại ái. Con đường đưa đến đoạn diệt khổ là thánh đạo tám ngành.


4. Tuệ tri Già chết: tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt của Già chết.


Từ tập khởi của Sinh, có tập khởi của Già chết; từ đoạn diệt của Sinh, có đoạn diệt của Già chết. Con đường đưa đến đoạn diệt của Già chết là thánh đạo tám ngành.


5. Tuệ tri Sinh, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt của Sinh.


Từ tập khởi của Hữu, có tập khởi của Sinh; từ đoạn diệt của Hữu, có đoạn diệt của Sinh. Con đường đưa đến đoạn diệt của Sinh là thánh đạo tám ngành.


6. Tuệ tri Hữu, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt của Hữu.


Từ tập khởi của Thủ, có tập khởu của Hữu; từ đoạn diệt của Thủ, có đoạn diệt của Hữu. Con đường đưa đến đoạn diệt của Hữu là thánh đạo tám ngành.


7. Tuệ tri Thủ, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt của Thủ.


Từ tập khởi của Ái, có tập khởi của Thủ; từ đoạn diệt của Ái, có đoạn diệt của Thủ. Con đường đưa đến đoạn diệt của Thủ là thánh đạo tám ngành.


8. Tuệ tri Ái, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt của Ái.


Từ tập khởi của Thọ, có tập khởi của Ái; từ đoạn diệt của thọ, có đoạn diệt của Ái. Con đường đưa đến đoạn diệt của Ái là thánh đạo tám ngành.


9. Tuệ tri Thọ, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt của Thọ.


Từ tập khởi của Xúc, có tập khởi của Thọ; từ đoạn diệt của Xúc, có đoạn diệt của Thọ. Con đường đưa đến đoạn diệt của Thọ là thánh đạo tám ngành.


10. Tuệ tri Xúc, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt của xúc.


Từ tập khởi của Sáu nhập, có tập khởi của Xúc; từ đoạn diệt của Sáu nhập, có đoạn diệt của Xúc. Con đường đưa đến đoạn diệt của Xúc là thánh đạo tám ngành.


11. Tuệ tri Sáu nhập, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt Sáu nhập.


Từ tập khởi của Danh-sắc, có tập khởi của Sáu nhập; từ đoạn diệt của Danh-sắc, có đoạn diệt của Sáu nhập. Con đường đưa đến đoạn diệt của Sáu nhập là thánh đạo tám ngành.


12. Tuệ tri Danh-sắc, tập khởi, đoạn diệt và đường đưa đến đoạn diệt Danh-sắc.


Từ tập khởi của Thức, có tập khởi của Danh-sắc; từ đoạn diệt của Thức, có đoạn diệt của Danh-sắc. Con đường đưa đến đoạn diệt của Danh-sắc là thánh đạo tám ngành.


13. Tuệ tri Thức, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt Thức.


Từ tập khởi của Hành, có tập khởi của Thức; từ đoạn diệt của Hành, có đoạn diệt của Thức. Con đường đưa đến đoạn diệt của Thức là thánh đạo tám ngành.


14. Tuệ tri Hành, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt Hành.


Từ tập khởi của Vô minh, có tập khởi của Hành; từ đoạn diệt của Vô minh, có đoạn diệt của Hành. Con đường đưa đến đoạn diệt của Hành là thánh đạo tám ngành.


15. Tuệ tri Vô minh, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt Vô minh.


Từ tập khởi của Lậu hoặc, có tập khởi của Vô minh; từ đoạn diệt của Lậu hoặc, có đoạn diệt của Vô minh. Con đường đưa đến đoạn diệt của Vô minh là thánh đạo tám ngành.


16. Tuệ tri Lậu hoặc, tập khởi, đoạn diệt và con đường đưa đến đoạn diệt Lậu hoặc.


Từ tập khởi của Vô minh, có tập khởi của Lậu hoặc; từ đoạn diệt của Vô minh, có đoạn diệt của Lậu hoặc. Con đường đưa đến đoạn diệt của Lậu hoặc là thánh đạo tám ngành.


III. CHÚ GIẢI


Chính kiến
 có hai: thế gian và xuất thế. Chính kiến thế gian cũng có hai: thấy nhân quả như người ngoài đạo cũng thấy; và cái thấy phù hợp với bốn thánh đế chỉ có trong Phật giáo. Chính kiến xuất thế là tuệ tri Bốn thánh đế nhờ đã đạt bốn đạo bốn quả. Ở đây tôn giả Xá lợi phất ám chỉ chính kiến xuất thế gian của bậc hữu học khi nói đến "lòng tin tuyệt đối " và "thành tựu diệu pháp".


Gốc rễ bất thiện
, vì chính tham sân si điều động tất cả hành vi bất thiện về thân ngữ ý.


Thùy miên
 khuynh hướng vi tế trong tâm.


Tuệ tri thiện và gốc rễ thiện
… Vị thánh đệ tử tuệ tri bốn điều theo Bốn chân lý: tất cả hành nghiệp thiện bất thiện là chân lý về Khổ; gốc rễ thiện và bất thiện là chân lý về Tập; sự không sinh khởi cả hai loại hành vi cùng với gốc rễ của chúng, là chân lý về Diệt; và conđường để thực hiện Diệt ấy là chân lý về Đạo. Khi tuệ tri như trên, vị thánh đệ tử đạt đến một trong các giai đoạn đầu của Hữu học là các đạo quả Dự lưu, Nhất lai, có chính kiến siêu thế, nhưng chưa gọi là đã tận trừ các nhiễm ô phiền não. Đoạn kế tiếp "đoạn trừ tất cả tham sân tùy miên", cho đến "diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại" là sự tu tập đạo lộ
Bất ho
àn cho đến quả vị A la hán: tham sân tùy miên diệt ở Bất hoàn đạo, vô minh và kiến mạn tùy miên "TÔI LÀ" diệt ở A la hán đạo.


Bất thiện
 là 10 nghiệp ác: 3 thuộc thân, 4 thuộc ngữ và ba thuộc ý: tham, sân, tà kiến. Gốc rễ bất thiện là tham sân si.


Thiện
 là từ bỏ 10 bất thiện nói trên. Gốc rễ thiện là không tham không sân không si.


Thức ăn
 có bốn loại: đoàn, xúc, tư niệm và thức. Đoàn thực ("đoàn" là nắm cơm, theo kiểu ăn bốc) nuôi thể xác hay sắc; xúc thực (sự tiếp xúc căn trần) nuôi thọ; tư niệm thực nuôi dưỡng thức; thức thực nuôi dưỡng danh sắc.


Tập khởi
 là nhóm họp nhiều yếu tố để khởi lên; nói "nguyên nhân" thì dễ hiểu hơn nhưng không lột hết được ý "duyên khởi" của Phật, là không có cái gì là "nguyên nhân đầu tiên", cũng không có một nhân duy nhất mà còn rất nhiều "duyên" hỗ trợ dẫn đến quả.


Ái được gọi là nguồn gốc
 của thức ăn, vì do ái trong đời trước mà có ra con người hiện tại tiếp tục lệ thuộc và tiêu thụ bốn loại thức ăn nói trên. Có ba loại: dục ái (say mê khoái lạc giác quan), hữu ái (say mê khoái lạc cõi trời) và phi hữu ái (say mê hư vô tịch mịch).


Mười hai đoạn từ 4 - 15
 là 12 chi duyên khởi theo chiều nghịch, bắt đầu từ già chết. Mười hai chi làm nên "cây nhân sinh" này theo Thanh tịnh đạo, giống như một dây leo có 12 đốt, muốn phá bỏ nó để chấm dứt sinh tử luân hồi, ta có thể nắm bất cứ một đốt nào để lôi tuốt lên cả gốc lẫn ngọn. Điều cần thiết là phải nắm thật vững chắc, tức là tuệ tri theo nguyên lý tứ diệu đế.


Hữu
 có ba, là dục, sắc và vô sắc - Hữu vừa chỉ cõi vừa chỉ hành nghiệp đưa chúng sinh sinh vào cõi ấy. Cõi dục là nơi tái sinh của chúng sinh nhiều ham muốn đối với khoái lạc giác quan. Cõi sắc là nơi chúng sinh tham cái đẹp, như cõi trời ở cõi dục, vì ham muốn ở đây thanh tao hơn. Cõi vô sắc là nơi chúng sinh say mê tư duy thiền định. Chúng sinh trong cả ba cõi đều bị trói buộc và không cố định, ví dụ từ vô sắc có thể đọa xuống cõi sắc hoặc cõi dục. Như tư tưởng vốn vô sắc nhưng ví dụ nghĩ đến đồ chua một lát thì miệng có thể ra nhiều nước bọt, thành "sắc" (sắc có nghĩa là vật chất thô và tế, do 4 đại tạo).


Thủ
 là sự nắm giữ, chấp chặt. Có 4: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ. Dục thủlà chủ trương hưởng lạc; ngã luận thủ đồng nghĩa với "ngã kiến" hay một trong 20 quan niệm về bản ngã đề cập trong kinh số 44.


Giới cấm thủ
 là chủ trương phải tuân giữ một số nghi thức, khổ hạnh nào đó để thanh lọc tội lỗi. Kiến thủ là ôm giữ bất cứ một quan điểm nào ngoài hai "thủ" vừa kể.


Ái
 có sáu loại do có sáu đối tượng là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.


Thọ
 (cảm nhận, chịu đựng) có sáu loại, phát sinh do sáu giác quan mắt tai mũi lưỡi thân ý tiếp xúc với đối tượng.


Xúc
 có sáu loại do có sáu giác quan: nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.


Sáu nhập
 còn gọi là sáu căn hay sáu nội xứ, tức sáu giác quan mắt tai mũi lưỡi thân ý.


Danh sắc
: "Danh" gồm 5 pháp là thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý (t "tâm sở biến hành" trong Duy thức. Ví dụ một cái nhìn đơn thuần là đủ 5 yếu tố: trước hết là sự tiếp xúc của con mắt với đối tượng, kế đến là tác ý hay để ý, rồi tưởng hay hoạt động của trí nhớ để đặt tên, xếp loại… Kèm theo là cảm giác hay thọ là hoạt động của cảm xúc do thói quen. Cuối cùng  là hoạt động của ý chí, khuynh hướng ưa, chán hoặc dửng dưng đối với đối tượng trước mắt). "Sắc" gồm tứ đại tạo nên thể xác: chất rắn như xương thuộc địa đại, chất lỏng thuộc thủy đại, hơi ấm thuộc hỏa đại, sự chuyển động hay gió trong cơ thể thuộc phong đại.


Thức
 có sáu loại: tức cái biết của mắt vv, gọi là nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.


Hành
 ở đây là "khuynh hướng hành động" hay nghiệp, có ba: thân hành, khẩu hành, ý hành.


Vô minh
 là không tuệ tri về Khổ, Tập, Diệt, Đạo.


Lậu hoặc
: Có ba lậu hoặc là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Trong lậu hoặc đã có sẵn vô minh. Vô minh sinh ra lậu hoặc rồi lậu hoặc lại sinh ra vô minh. Nên hiểu là, vô minh trong một đời nào cũng có cái nhân hay điều kiện là vô minh từ đời trước đấy. Bởi thế không thể chỉ rõ cái mối đầu của vô minh, và cũng không có mối đầu cho dòng sinh tử.


IV. PHÁP SỐ 


Ba ái
: dục ái, hữu ái, phi hữu ái [tham ngũ dục, tham cõi trời và tham hư vô].

Ba hành: thân, ngữ, ý hành.

Ba lậu hoặc 

Ba thiện căn: vô tham, vô sân, vô si.

Ba bất thiện căn: tham, sân, si.

Ba hữu: dục, sắc, và vô sắc.

Bốn tùy miên: tham, sân, kiến, mạn.

Bốn thức ănĐoàn, xúc, tư niệm, thức.

Bốn đại sở tạo sắc.

Bốn chân lý 

Bốn thủ: dục, giới cấm, kiến, ngã luận.

Năm thủ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức bị chấp thủ là "tôi" và "của tôi".

Năm biến hành tâm sở: xúc, tác, ý, thọ, tưởng, tư.

Sáu ái: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ái.

Sáu thọ: thọ do nhãn xúc sinh, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh.

Sáu xúc: nhãn xúc… ý xúc.

Sáu nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu cái cửa qua đó ngoại vật đi vào tâm thức.

Sáu thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thiệt, thân, ý thức.

Tám thánh đạo hay Thánh đạo tám ngành.

Mười thiện nghiệp: sự không làm mười bất thiện.

Mười bất thiện nghiệp: ba của thân là sát, đạo, dâm; 4 ngữ nghiệp là nói dối, hai lưỡi, thô tục và phù phiếm; 3 của ý là tham, sân và tà kiến.

Mười hai nhân duyên: từ vô minh đến già chết.


V. KỆ TỤNG


A. Tuệ tri thiện bất thiện:
1. Chính tri kiến thành tựu
Khi vị thánh đệ tử
Tuệ tri thiện bất thiện
C
ùng gốc rễ của chúng

2. Bất thiện gồm 10 điều:
Sát sinh v
à trộm cắp
Tà hạnh trong các dục
Nói dối và đâm thọc
Ác khẩu v
à thêu dệt
Tham, sân cùng tà kiến.
Gốc rễ của bất thiện
Là tham sân và si.

3. Thiện là bỏ 10 ác
Và gốc rễ của thiện
Là không tham, sân, si
Khi tuệ tri như vậy
Nhổ tận tham tùy miên
Và kiến, mạn tùy miên
Không còn chấp "Tôi là"
Vô minh diệt, minh sinh.

B. Tuệ tri thức ăn:
1. Bốn loại thức ăn này:
Đoàn, xúc, tư niệm, thức
Khiến dòng sống tiếp tục
Để tái diễn khổ sầu.

2. Thức ăn n
ày do "ái"
Diệt ái, hết thức ăn
Phương pháp đoạn diệt ái
L
à thánh đạo tám ngành.

3. Tuệ tri thức ăn này
Theo nguyên lý Bốn diệu
Đệ tử sạch tham ái
Diệt khổ ngay hiện tại.

4. Nhổ tận tham t
ùy miên
Và kiến, mạn tùy miên
Không còn chấp "Tôi là"
Vô minh diệt, minh sinh.

C. Tuệ tri Khổ:
Khổ là sinh, già chết
Sầu bi khổ não ưu
Kèm theo thân năm uẩn
Nguồn gốc đống khổ n
ày
Là "ái" khiến tái sinh
Tìm hỷ lạc cùng khắp:
Dục, hữu và phi hữu.
Muốn giải thoát khổ này
Hãy từ bỏ khát ái
Đoạn diệt không dư tàn.
Phương pháp đoạn diệt khổ
L
à tám ngành thánh đạo.

D. Tuệ tri Già chết
Hoặc tuệ tri Già chết
Theo nguyên lý Bốn diệu:
Nỗi đau ê ẩm này
Không có nếu không sinh
Muốn đoạn trừ Già chết
Hãy đoạn trừ tái sinh
Con đường đoạn tận Sinh
L
à tám ngành thánh đạo.

E. Tuệ tri Sinh
Hoặc tuệ tri về Sinh
Cùng tập khởi, đoạn diệt.
Sinh bắt nguồn từ Hữu
[Khuynh hướng muốn có mặt]
Muốn đoạn diệt Sinh
Th
ì đừng ham có mặt
Con đường đoạn diệt Sinh
L
à tám ngành thánh đạo.

F. Tuệ tri Hữu
Hoặc tuệ tri về Hữu
Tập khởi cùng đoạn diệt.
Có ba loại hữu n
ày
Dục, sắc và vô sắc
Hữu là do chấp thủ
Muốn có mặt ở đây
Con đường đoạn diệt Hữu
L
à tám ngành thánh đạo.

G. Tuệ tri Thủ
Hoặc tuệ tri về Thủ
Tập khởi cùng đoạn diệt.
Có bốn chấp thủ n
ày
Dục thủ và kiến thủ
Giới thủ và ngã luận
Nguồn gốc thủ là ái
Diệt ái thì thủ diệt
Con đường đoạn diệt Thủ
L
à tám ngành thánh đạo.

H. Tuệ tri Ái
Hoặc tuệ tri về Ái
Tập khởi cùng đoạn diệt.
Ái gồm có sáu loại
Y
êu sắc, thanh, hương, vị
Xúc, và pháp vô hình.
Nguồn gốc ái là thọ
Dứt thọ thì ái diệt
Con đường đoạn diệt Ái
L
à tám ngành thánh đạo.

I. Tuệ tri Thọ
Hoặc tuệ tri về Thọ
Tập khởi cùng đoạn diệt
Có sáu loại thọ n
ày
Do có sáu giác quan
Nên nguồn gốc của Thọ
Là căn, trần tiếp xúc
Dứt xúc th
ì thọ diệt
Con đường đoạn diệt Thọ
L
à tám ngành thánh đạo.

J. Tuệ tri Xúc
Hoặc tuệ tri về Xúc
Tập khởi cùng đoạn diệt
Có sáu loại xúc n
ày
Do có sáu giác quan
Nên nguồn gốc của Xúc
Là mắt tai mũi lưỡi…
Không giác quan, không xúc
Con đường đoạn diệt Xúc
L
à tám ngành thánh đạo.

K. Tuệ tri Sáu nhập:
Hoặc tuệ tri Sáu nhập:
Qua đó sáu đối tượng
Đi v
ào trong tâm thức
Còn gọi "sáu giác quan".
Nguồn gốc của Sáu nhập
Chính là danh và sắc:
Diệt được cái nguồn gốc
Th
ì sáu nhập không sinh.
Con đường đoạn Sáu nhập
L
à tánh ngành thánh đạo.

L. Tuệ tri Danh sắc
Hoặc tuệ tri Danh sắc
Sắc là thân vật lý
Phần tâm lý là danh
Nguồn gốc nó là Thức
Diệt được cái nguồn gốc
Th
ì danh sắc không sinh.
Con đường đoạn Danh sắc
L
à tám ngành thánh đạo.

M. Tuệ tri Thức
Hoặc tuệ tri về Thức
Gồm s’au loại tất cả
Cùng tập khởi, đoạn diệt
Nguồn gốc nó l
à Hành
Diệt được cái nguồn gốc
Th
ì Thức sẽ không sinh
Con đường đoạn diệt Thức
L
à tám ngành thánh đạo.

N. Tuệ tri về Hành
Hoặc tuệ tri về Hành
Gồm ba: thân, ngữ, ý
Cùng tập khởi, đoạn diệt
Nguồn gốc l
à Vô minh
Diệt được cái nguồn gốc
Th
ì Hành sẽ không sinh
Con đường đoạn diệt ấy
L
à tám ngành thánh đạo.

O. Tuệ tri vô minh
Hoặc tuệ tri Vô minh
Cùng tập khởi, đoạn diệt
Vô minh l
à không sáng
Đối với bốn chân lý.
Vô minh do Lậu hoặc
Diệt được gốc của nó
Th
ì vô minh cũng diệt
Con đường đoạn Vô minh
L
à tám ngành thánh đạo.

P. Tuệ tri Lậu hoặc
Hoặc tuệ tri Lậu hoặc
Gồm dục, hữu, vô minh
Vô minh sinh ba hoặc
Ba hoặc dưỡng vô minh.
Dứt sạch được vô minh
Th
ì không còn lậu hoặc.
Con đường đoạn Lậu hoặc
L
à tám ngành thánh đạo.

KẾT:
Ai tuệ tri như vậy
Là có chính tri kiến
Có đức tin chân chính
Th
ành tựu diệu pháp này.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 10

NIỆM XỨ

I. TOÁT YẾU


Satipatthàna Sutta - The foundations of mindfullness
.


This is one of the fullest and most important suttas by the Buddha dealing with meditation, with particular emphasis on the development of insight. The Buddha begins by declaring the four foundations of mindfullness to be the direct path for the realisation of Nibbàna, then gives detailed instructions on the four foundations: the contemplation of the body, feelings, mind and mind objects
.


Nền tảng của chính niệm
.


Đây l
à một trong những kinh quan trọng và đầy đủ nhất mà Phật dạy về thiền, đặc biệt nhấn mạnh sự phát triển tuệ quán. Khởi đầu, Phật tuyên bố bốn niệm xứ là con đường thẳng tắt để thực chứng niết bàn. Sau đó Ngài chỉ dạy chi tiết về bốn niệm xứ là quán thân, cảm thọ, tâm và các pháp đối tượng của tâm.


II. TÓM TẮT


Phật dạy bốn niệm xứ là con đường độc nhất đưa chúng sinh đến thanh tịnh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chính trí, chứng ngộ niết bàn.


Bốn niệm xứ
 là: quán thân trên thân, quán cảm thọ trên các thọ, quán tâm trên tâm, và quán pháp trên các pháp.


1. Quán thân: bao gồm 14 bài tập là: niệm hơi thở; quán bốn uy nghi hay thân hành; chính niệm tỉnh giác trong mọi hoàn cảnh; quán bất tịnh; quán bốn đại; và chín pháp quán tử thi ở nghĩa địa qua các giai đoạn tan rã.


2. Quán thọ: kể như một bài tập. Thọ là các cảm giác dễ chịu, khó chịu, trung tính về thân, tâm.


3. Quán tâm: một bài tập: Tuệ tri tâm có hay không tham, sân, si, tán loạn, quảng đại; thâu nhiếp hay tán loạn; hữu hạn hay vô thượng; có định không định, có giải thoát không giải thoát.


4. Quán pháp: gồm năm phân đoạn: 1- Năm triền cái; 2- Năm uẩn; 3- Sáu nội xứ; 4- Bảy giác chi; 5- Bốn thánh đế.


Vậy kinh này giảng tất cả 21 bài tập thiền quán. Mỗi bài tập lại gồm hai phần, phần luyện tập căn bản được giải thoát trước, và phần bổ túc dạy làm thế nào hướng sự tu tập ấy đến việc đào sâu tuệ giác. Phần này không thay đổi trong cả 21 bài tập, đó là đoạn "… Vị ấy sống quán tính sinh khởi trên thân, quán tính diệt tận trên thân, … an trú chính niệm, hy vọng hướng đến chính trí …, sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời."


Cuối cùng, Phật nêu lên kết quả việc quán Bốn niệm xứ để khuyến khích tu hành: đó là chứng quả A la hán hoặc Bất hoàn.


III. CHÚ GIẢI


Sớ giải kinh Trung bộ nói ekàyana magga có nghĩa là "con đường độc đạo vì không có ngõ tẻ ", là "con đường mà mỗi người phải tự bước đi không bầu bạn", là "con đường dẫn đến mục tiêu duy nhất, đó là niết bàn". Trong khi tu các thiền chứng và phạm trú có thể không đưa đến niết bàn vì những ngõ tẻ, thì bốn niệm xứ nhất định đưa đến niết bàn, mục đích tối hậu.


Sự lặp lại "quán thân trên thân" - kàye kàyànupassì - có mục đích xác định cho rõ ràng đối tượng quán là thân thể và chỉ thân thể mà thôi, không lẫn với những khái niệm khác như những cảm giác, ý nghĩ liên hệ đến thân ấy. Lại nữa, chỉ nên quán thân thể như là thân thể chứ không kèm theo các khái niệm như đàn ông, đàn bà, ngã, hay chúng sinh. Với thọ, tâm, pháp cũng thế. Ví dụ "tê" hoặc "ngứa" khi ngồi thiền là một cảm thọ, dễ kéo theo các cảm thọ khác như bực bội, v.v. hoặc kéo theo "hành" như suy nghĩ lung tung; nên cần phải dừng lại trên cảm thọ ấy mà thôi, gọi là "quán thọ trên thọ".


Đại h
ành exalted mind, và vô thượng unsurpassed mindđược giải thích là tâm ở trong các cõi thiền và định chứng vô sắc. Tâm không đại hành và "hữu thượng" là tâm ở cõi dục. Tâm "giải thoát" là tâm tạm lắng dịu phiền não nhờ tuệ quán hoặc nhờ chứng các thiền. Vì sự tu tập Niệm xứ là giai đoạn chuẩn bị để đạt đến các đạo lộ giải thoát thuộc siêu thế, nên không thể hiểu "tâm giải thoát" nói trong bài tập này đã là giải thoát thuộc siêu thế.


Trong phần quán bảy giác chi, quán "trạch pháp giác chi" dhammavicaya, nghĩa là dùng chính niệm để thăm dò hiện tượng tâm vật lý đang diễn ra trong tâm hành giả.


IV. PHÁP SỐ 


Một con đường duy nhất, ekamagga
, là tứ niệm xứ quán.

Bốn đại 

Bốn niệm xứ: thân, thọ, tâm, pháp.

Bốn sự thật 

Bốn uy nghiđi, đứng, nằm, ngồi.

Năm triền cái 

Năm thủ uẩn 

Sáu nội ngoại xứ 

Bảy giác chi 

Mười giai đoạn tử thi 

Ba mươi mốt uế vật: Tóc, lông, móng, răng, da; Thịt, gân, xương, thận, tủy; Tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi; Ruột, màng ruột, bao tử, phân, mật; Đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ; Nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương; Nước tiểu.


V. KỆ TỤNG


Có con đường độc nhất
- Bốn cơ sở tưởng niệm -
Khiến chúng sinh thanh tịnh
Diệt sầu n
ão khổ ưu
Thành tựu được chính trí
V
à chứng ngộ niết bàn.
Một, quán thân như thân
Hai, thọ như cảm thọ
Ba, quán tâm như tâm
Bốn, quán pháp như pháp.

A. Quán thân:
Quán thân mười bốn mục
Thực hành vào mọi lúc
Một, niệm hơi ra vào
Dài ngắn đều ý thức
Hai, quán bốn uy nghi
Lúc nằm ngồi đứng đi
Ba, r
õ biết thân hành
Khi duỗi, co cúi, ngước.
Bốn, quán thân bất tịnh
Tóc lông móng răng da.
Năm, thân gồm bốn đại
Chẳng có g
ì là "ta".
Và đây chín giai đoạn
Khi thân đ
ã ra ma.
Một là thây trương phình
Còn đâu vẻ đẹp xinh?
Hai, côn tr
ùng đục khoét
Không c
òn ra dáng hình
Ba, bộ xương dính thịt
Với bốn đường liên kết
Bốn còn máu và gân
Sâu kiến lại tranh phần
Năm là xương hết máu
Nhưng còn dính liền gân
Sáu, bộ xương rời rã
Rải rác khắp mộ phần
Bảy, xương màu vỏ ốc
Theo gió bụi thời gian
Tám, một đống xương tàn
Trên đường về cát bụi
Tung bay giữa không gian
Đây l
à giai đoạn cuối.
Quán sát thân thể n
ày
Bản chất là như vậy
Sinh ra rồi già chết
Không thể nào khác hơn
Tỳ kheo sống chính niệm
Gột rửa hết tham ưu
Không nương tựa chấp trước
Bất cứ gì trên đời.

B. Quán thọ:
Kế đến, quán cảm thọ
L
à cảm giác thân, tâm
Gồm ba loại: Khổ, vui,
Và không vui không khổ.
Tuệ tri từng cảm thọ
Là nghe ngóng theo dõi
Sinh, trú diệt của nó
Chính niệm, gột tham ưu.

C. Quán tâm:
Có tham, tuệ tri "tham"
Không tham, biết "không tham"
Với sân, si, cũng vậy;
Thâu nhiếp hay tán loạn;
Quảng đại, không quảng đại;
Hữu hạn hay vô thượng;
Có định hay không định;
Giải thoát, không giải thoát.
Tuệ tri các tâm ấy
Khi sinh khởi, diệt tận,
Tỳ kheo sống chính niệm
Để gột rửa tham ưu.

D. Quán pháp:
Quán pháp gồm năm mục
Một quán 5 triền cái
Tham, sân v
à ngủ gục
Trạo cử và hoài nghi.
Hai quán năm thủ uẩn
Sắc, thọ, tưởng, h
ành, thức
Sinh khởi và đoạn diệt
Mỗi thứ cần biết r
õ.
Ba quán sáu giác quan
Cùng với sáu đối tượng:
Tuệ tri kết sử sinh
Do trong ngo
ài tiếp xúc;
Tuệ tri kết sử diệt
Tương lai sẽ không sinh.
Tuệ tri các pháp ấy
Khi sinh khởi, diệt tận,
Tỳ kheo sống chính niệm
Để gột rửa tham ưu.
Bốn quán bảy giác chi:
Trước hết "Niệm" tuệ tri
Chưa sinh, cần sinh khởi
Đ
ã sinh, hãy viên thành.
Trạch pháp, hỷ, tinh tấn
Khinh an, định và xả
Sáu giác chi còn lại
Cùng quán sát như trên.
Tuệ tri các pháp ấy
Khi sinh khởi, diệt tận,
Tỳ kheo sống chính niệm
Để gột rửa tham ưu.

E. Quán bốn thánh đế:
Tuệ tri "Đây là khổ"
"Đây là nguồn gốc khổ"
"Đây là sự diệt khổ"
"Đây là đường diệt khổ"
Tuệ tri các pháp ấy
Khi sinh khởi, diệt tận,
Tỳ kheo sống chính niệm
Để gột rửa tham ưu.

-ooOoo-