Kinh Vu Lan và Kinh Báo Ân Cha Mẹ (Dịch Thơ)

Tuesday, 11 August 20204:23 PM(View: 4106)
Kinh Vu Lan và Kinh Báo Ân Cha Mẹ (Dịch Thơ)
KINH VU LAN BỒN
HT. Thích Huệ Đăng dịch thơ

NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm).

TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
Án lam tóa ha. (3 lần)

TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

(Chủ lễ thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương).

CÚNG HƯƠNG

Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương,
Phưởng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo.

Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng Pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ.
Tâm Bồ Đề kiên cố,
Chí tu học vững bền,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ giác.

KỲ NGUYỆN

Nay chính là mùa Vu Lan, chư tăng mãn hạ, đem đức lành hóa độ chúng sanh, chúng con một dạ chí thành, cúng dường trì tụng, đem công đức này, nguyện khắp mười phương, ba ngôi Tam Bảo, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, cùng các vị bồ tát, tịnh đức chúng tăng, từ bi gia hộ cho cửu huyền thất tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh, sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh lạc quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp độ.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát, Ma Ha Tát. (3 lần)

TÁN THÁN PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp không cùng tận.


QUÁN TƯỞNG PHẬT

Phật, chúng sanh, tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo, hào quang sáng

ngời. Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

ĐẢNH LỄ


Chí tâm đảnh lễ
: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường Trú Tam Bảo.


Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.


Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

 

TÁN LƯ HƯƠNG

Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười

phương, Hiện thành mây báu kiết tường,

Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Chứng minh hương nguyện phước liền

ban cho.


Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần)


CHÚ ĐẠI BI


Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)


Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.


Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.


Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.


Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.


Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.


Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế thước bàng ra dạ, ta bà ha.


Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

KHAI KINH KỆ

Vọi vọi không trên pháp thẩm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe đặng chuyên trì niệm,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát. (3 lần)


PHẬT NÓI
KINH VU LAN BỒN


Ta từng nghe lời tạc như vầy:

Một thuở nọ Thế tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳt hụ viên trung,
Mục Liên mới đặng lục thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.

Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
Làm con hiếu hạnh vi tiên,
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm.

Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ,
Không uống ăn tiều tụy hình hài,
Mục Liên thấy vậy bi ai!
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.

Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu,
Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.
Thấy cơm, mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn.

Lòng bỏn xẻn tiền-căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp dựt của bà,
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.

Thấy như vậy âu sầu thê thảm,
Mục Kiền Liên bi cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng đường,
Bạch cùng sư phụ tầm phương giải nàn.

Phật mới bảo rõ ràng căn cội:
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu,
Dầu ông thần lực nhiệm mầu,
Một mình không thể ai cầu đặng đâu.

Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên,
Cùng là các bực Thần kỳ,
Tà, ma, ngoại đạo, bốn vì Thiên vương.

Cộng ba cõi sáu phương tu tập,
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi, 
Muốn cho cứu đặng mạng người,
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.


Pháp cứu-tế ta toan giải nói,
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn,
Bèn kêu Mục Thị đến gần,
Truyền cho diệu pháp ân-cần thiết thi.

Rằm tháng bảy là ngày Tự tứ,
Mười phương tăng đều dự lễ này,
Phải toan sắm sửa chớ chầy,
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu.

Lại phải sắm giường nằm nệm lót,
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu,
Món ăn tinh-sạch báu mầu,
Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.

Chư Đại đức mười phương thọ thực,
Trong bảy đời sẽ được siêu thăng,
Lại thêm cha mẹ hiện tiền,
Đặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn.

Vì ngày ấy Thánh-tăng đều đủ,
Dầu ở đâu cũng tụ-hội về,
Như người Thiền định sơn khê,
Tránh điều phiền não chăm về thiền na.

Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả,
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh,
Hoặc người thọ hạ kinh hành,
Chẳng ham quyền quý ẩn-danh lâm tòng.

Hoặc người đặng Lục Thông tấn phát,
Và những hàng Duyên giác, Thanh văn,
Hoặc chư Bồ tát mười phương,
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh.

Đều trì giới rất thanh, rất tịnh,
Đạo đức dày, chánh định chơn tâm,
Tất cả các bực thánh, phàm
Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa.

Người nào có sắm ra vật thực,
Đặng cúng dường Tự tứ tăng thời,
Hiện tiền phụmẫu của người,
Bà con quyếnthuộc thảy đều nhờ ơn.

Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi,
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên,
Như còn cha mẹ hiện tiền,
Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ trường.

Như cha mẹ bảy đời quá vãng,
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung,
Người thời tuấn tú hình dung,
Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.

Phật dạy bảo mười phương tăng chúng,
Phải tuân theo thể-thức sau này:
Trước khi thọ thực đàn chay,
Phải cầu chú-nguyện cho người tín-gia.

Cầu thất thế mẹ cha thí chủ,
Định tâm thần quán đủ đừng quên,
Cho xong ý định hành thiền,
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng.

Khi thọ dụng nên an vật thực,
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung,
Chư tăng chú nguyện viên dung,
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa.

Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt,
Mục Liên cùng Bồ tát chư tăng,
Đồng nhau tỏ dạ vui mừng,
Mục Liên cũng hết khóc thương rầu buồn.

Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy,
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan,
Mục-liên bạch với Phật rằng:
"Mẹ con nhờ sức Thánh tăng khỏi nàn.

Lại cũng nhờ oai thần Tam bảo,
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra,
Như sau đệ tử xuất gia,
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh.

Độ cha mẹ còn đương tại thế,
Hoặc bảy đời có thể đặng không?
Phật rằng: "Lời hỏi rất thông,
Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo.

Thiện nam tử, tỳ kheo nam nữ,
Cùng quốc vương, thái tử, đại thần,
Tam-công, tể tướng, bá quan,
Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần,

Như chí muốn đền ơn cha mẹ,
Hiện tại cùng thất thế tình thâm,
Đến rằm tháng bảy mỗi năm,
Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về,

Chính ngày ấy Phật đà hoan hỷ,
Phải sắm sanh bá vị cơm canh,
Đựng trong bình bát tinh anh,
Chờ giờ Tự Tứ, chúng tăng cúng dường,

Đặng cầu nguyện song đường trường thọ,
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi,
Cùng cầu thất thế đồng thì,
Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên.

Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp,
Lại xa lìa nạn khổ cực thân,
Môn sanh Phật tử ân cần,
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên.

Thường cầu nguyện thung huyên an hảo,
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh,
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm,
Vì lòng hiếu thảo thâm ân phải đền.

Lễ cứu tế chí thành sắp đặt,
Ngõ cúng dường chư Phật chư tăng,
Ấy là báo đáp thù ân,
Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu.

Đệ-tử Phật lo âu gìn giữ,
Mới phải là Thích tử thiền môn,
Vừa nghe dứt pháp Lan bồn,
Môn-sanh tứ-chúng thảy đồng hỷ hoan.

Mục Liên với bốn ban Phật tử,
Nguyện một lòng tín sự phụng hành,
Trước là trả nghĩa sanh thành,
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát. 
(3 lần)

PHẬT NÓI
KINH BÁO ÂN CHA MẸ


Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung,
Chư tăng câu hội rất đông,
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.


Lại cũng có các hàng Bồ Tát,
Hội tại đây đủ mặt thường thường,
Bấy giờ Phật lại lên đường,
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến

hành.

Đáo bán lộ đành rành mắt thấy,

Núi xương khô bỏ đấy lâu đời,
Thế Tôn bèn vội đến nơi,
Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng.


Đức A Nan trong lòng ái ngại,
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương,
Vội vàng xin Phật dạy tường:
Thầy là từ phụ ba phương bốn loài.

 

Ai ai cũng kính thầy dường ấy,

Cớ sao thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: Trong các môn đồ,
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công.


Bởi chưa biết đục trong chưa rõ,
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:
Đống xương dồn dập bấy lâu,
Cho nên trong đó biết bao cốt hài.


Chắc cũng có ông bà cha mẹ,
Hoặc thân ta, hoặc kẻ ta sanh,
Luân hồi sanh tử, tử sanh,
Lục thân đời trước, thi hài còn đây.


Ta lễ bái kỉnh người tiền bối,
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Đống xương hỗn tạp chẳng vừa,
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.


Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ,
Phân làm hai bên nữ, bên nam,
Để cho phân biệt cốt phàm,
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.

 

Đức A Nan trong lòng tha thiết,
Biết làm sao phân biệt khỏi sai,
Ngài bèn xin Phật tỏ bày,
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.


Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt,
Cách đứng đi ăn mặc phân minh,
Chớ khi rã xác tiêu hình,
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.


Phật mới bảo: A Nan nên biết!
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng,
Đàn ông xương trắng nặng quằn,
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.


Ngươi có biết cớ sao đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra,
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.


Vì cớ ấy hao mòn thân thể,
Xương đàn bà, đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai,
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.

 

Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo,
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe!


Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc,
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang,
Tháng đầu, thai đậu tợ sương,
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường.


Tháng thứ nhì dường như sữa đặc.
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng.
Bốn tháng đã tượng ra hình.
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng.


Tháng thứ sáu lục căn đều đủ.
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương.
Lại thêm đủ lỗ chân lông,
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn.


Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ.
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình.
Mười tháng là đến kỳ sinh.
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn.

Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu,
Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung,
Làm cho cha mẹ hãi hùng,
Sự đau, sự khổ không cùng tỏ phân.


Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc,
Cũng ví như được bạc được vàng.
Thế Tôn lại bảo A Nan:
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin.


Điều thứ nhứt giữ gìn thai giáo,
Mười tháng trường chu đáo mọi bề.
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê,
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần.


Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng,
Cực đến đâu, bền vững chẳng lay.
Thứ tư ăn đắng nuốt cay,
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con.


Điều thứ năm lại còn khi ngủ,
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con.
Thứ sáu sú nước nhai cơm,
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê.

 

Điều thứ bảy không chê ô uế,
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền.
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng,
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo.


Điều thứ chín miễn con sung sướng,
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam,
Tính sao có lợi thì làm,
Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm.


Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt,
Dành cho con các cuộc thanh nhàn,
Thương con như ngọc như vàng,
Ơn cha, nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.


Phật lại bảo: A Nan nên biết!
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người,
Mười phần mê muội cả mười,
Không tường ơn trọng đức dày song thân.


Chẳng kính mến, quên ân, trái đức,
Không xót thương dưỡng dục cù lao,
Ấy là bất hiếu mặc giao,
Thì những người ấy đời nào nên thân.

 

Mẹ sanh con cưu mang mười tháng, Cực khổ dường gánh nặng trên vai, Uống ăn chẳng đặng vì thai,
Cho nên thân thể hình hài kém suy.


Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết,
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề,
Ví như thọc huyết trâu dê,
Nhứt sanh thập tử nhiều bề gian nan.


Con còn nhỏ phải lo săn sóc,
Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con,
Phải tắm, phải giặt, rửa trôn,
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì.


Nằm phía ướt, con nằm phía ráo,
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn,
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân,
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương.


Trọn ba năm bú nương sữa mẹ,
Thân gầy mòn nào nệ với con,
Đến khi vừa được lớn khôn,
Mẹ cha dạy bảo cho con vỡ lòng.

 

Cho đi học mở thông trí huệ,
Dựng vợ chồng có thế làm ăn,
Ước mong con được nên thân,
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.


Con đau ốm tức thì lo chạy,
Dầu tốn hao cách mấy cũng đành,
Khi con căn bệnh đặng lành,
Thì cha mẹ mới an thần định tâm.

Công dưỡng dục sánh bằng non biển,
Cớ sao con chẳng biết ơn này!

Hoặc khi lầm lỗi bị rầy,
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngổn ngang.


Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt,
Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi,
Bà con chẳng kể ra chi,
Không tuân sư phụ lễ nghi chẳng tường.


Lời dạy bảo song đường không kể,
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng,
Trái ngang chống báng mọi đàng,
Ra vào lui tới mắng càn người trên.

 

Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng,
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn,
Lớn lên theo lối hung hăng,
Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung.


Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ,
Nết tập quen làm sự trái ngang,
Nghe lời dụ dỗ quân hoang,
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người.


Trước còn tập theo thời theo thế,
Thân lập thân tìm kế sinh nhai,
Hoặc đi buôn bán kiếm lời,
Hoặc vào quân lính với đời lập công.


Vì ràng buộc đồng công, mối nợ,
Hoặc trở ngăn vì vợ vì con,
Quên cha quên mẹ tình thâm,
Quên xứ quên sở lâu năm không về.


Ấy là nói những người có chí,
Chớ phần nhiều du hý mà thôi,
Sau khi phá hết của rồi,
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.

 

Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc,
Phạm tội hình, tù ngục phải vương,
Hoặc khi mang bệnh giữa đường,
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài

đồng.


Hay tin dữ, bà con cô bác,
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu,
Thương con than khóc ưu sầu,
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương.


Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ,
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn,
Hoặc nghe con chẳng lo lường,
Trà đình, tửu điếm, phố phường ngao du.


Cứ mài miệt với đồ bất chánh,
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang,
Làm cho cha mẹ than van,
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời.


Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu,
Không ai nuôi thốn thiếu mọi điều,
Ốm đau đói rách kêu rêu,

Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương.


Phận con gái còn nương cha mẹ,
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa,
Cần lao phục dịch trong nhà,
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi.


Song đến lúc tùng phu xuất giá,
Lo bên chồng chẳng sá bên mình,
Trước còn lai vãng viếng thăm,
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà.


Quên dưỡng dục song thân ân trọng,
Không nhớ công mang nặng đẻ đau,
Chẳng lo báo bổ cù lao,
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay.


Nếu cha mẹ rầy la quở mắng,
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng,
Chớ chi chồng đánh liên miên,
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng 
than.


Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ,
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang.

Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng,
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm 
thay!

Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi,
Đập vào mình, vào mũi, vào hông,
Làm cho các lỗ chân lông,
Thảy đều rướm máu, ướt đầm cả thân.


Đến hôn mê tâm thần bất định,
Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
Bọn ta quả thiệt tội nhơn,

Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù.

Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc,
Ruột gan dường như nát như tan,
Tội tình khó nỗi than van,
Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu.


Trước Phật tiền ai cầu trần tố,
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân,
Làm sao báo đáp thù ân,
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình.


Phật bèn dụng Phạm thinh sáu món,

Phân tỏ cùng đại chúng lắng nghe,
Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề,
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.


Ví có người ơn sâu dốc trả,
Cõng mẹ cha tất cả hai vai,
Giáp vòng hòn núi Tu Di,
Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền.


Ví có người gặp cơn đói rét,
Nuôi song thân dâng hết thân này, Xương nghiền thịt nát phân thây,
Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng.


Ví có người vì công sanh dưỡng,
Tự tay mình khoét thủng song ngươi, Chịu thân mù tối như vầy,
Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu.


Ví có người cầm dao thiệt bén,
Mổ bụng ra, rút hết tâm can,
Huyết ra khắp đất chẳng than,
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.

Ví có người dùng ngàn mũi nhọn,
Đâm vào mình bất luận chỗ nào,
Tuy là sự khó biết bao,
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.


Ví có người vì ơn dưỡng dục,
Tự treo mình cúng phật thế đèn,
Cứ treo như vậy trọn năm,
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.


Ví có người xương nghiền ra mỡ,
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình,
Xương tan thịt nát chẳng phiền,
Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.


Ví có người vì công dưỡng dục,
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan,
Làm cho thân thể tiêu tan,
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền.


Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi,
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn,
Đồng thinh bạch Phật lời rằng:
Làm sao trả đặng ân thâm song đường?

 

Phật mới bảo các hàng phật tử,
Phải lắng nghe ta chỉ sau này,
Các người muốn đáp ơn dày,
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền.


Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng,
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa,
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa,
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi.


Rằm tháng bảy đến ngày Tự Tứ,
Thập phương tăng đều dự lễ này,
Sắm sanh lễ vật đủ đầy,
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng.


Đặng cầu nguyện song đường trường thọ,
Hoặc sanh về Tịnh Độ an nhàn,
Ấy là báo đáp thù ân,
Sanh thành dưỡng dục song thân của 
mình.


Mình còn phải cần chuyên trì giới,

Pháp tam quy ngũ giới giữ gìn,
Những lời ta dạy đinh ninh,
Khá nên y thử phụng hành đừng sai.

 

Được như vậy mới là khỏi tội,
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa,
Trong năm đại tội kể ra,
Bất hiếu thứ nhứt, thật là trọng thay.


Sau khi chết bị đày vào ngục,
Ngũ Vô Gián, cũng gọi A Tỳ,
Ngục này trong núi Thiết Vi,
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề.


Trong ngục này hằng ngày lửa cháy,
Đốt tội nhơn hết thảy thành than,
Có lò nấu sắt cho tan,
Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình.


Một vá đủ cho người thọ khổ,
Lột thịt da đau thấu tâm can,
Lại có chó sắt, rắn gang,
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn.


Ở trong ngục có giường bằng sắt,
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong,
Rồi cho một ngọn lửa hồng,
Nướng quay chúng nó da phồng thịt thau.

Móc bằng sắt, thương đao, gươm giáo,
Trên không trung đổ tháo như mưa,
Gặp ai chém nấy chẳng chừa,
Làm cho thân thể nát nhừ như tương.


Những hình phạt vô phương kể hết,
Mỗi ngục đều có cách trị riêng, Như là xe sắt phân thây,
Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le.


Chớ chi đặng chết liền rất đỡ,
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân,
Ngày đêm chết sống muôn lần,
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một 
giây.

 

Sự hành phạt tại A Tỳ ngục,
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân,
Chúng ngươi đều phải ân cần,
Thừa hành các việc phân trần khoản trên.


Nhứt là phải kinh này in chép,
Truyền bá ra cho khắp Đông Tây,
Như ai chép một quyển này,
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn.

 

Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy,
Thì cũng bằng thấy phật vạn thiên,
Do theo nguyện lực tùy duyên,
Chư phật ủng hộ y như sở nguyền.


Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh,
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung.
Khi lời Phật giảng vừa xong,
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng.


Lại phát nguyện thà thân này nát,
Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài,
Dẫu cho lưỡi kéo trâu cày,
Đến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên.


Ví như bị bá thiên đao kiếm,
Khắp thân này đâm chém phân thây,
Hoặc như lưới trói thân này,
Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai.


Dẫu thân này bị cưa, bị chặt,
Phân chia ra muôn đoạn rã rời,
Đến trăm ngàn kiếp như vầy,

Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên.


Đức A Nan kiền thiền đảnh lễ,
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh,
Ngày sau truyền bá chúng sinh,
Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành.


Phật mới bảo: A Nan nên biết!
Quyển kinh này quả thiệt cao xa,
Đặt tên Báo Hiếu Mẹ Cha,
Cùng là Ân Trọng thiệt là chơn kinh.


Các ngươi phải giữ gìn chu đáo,
Đặng đời sau y giáo phụng hành.
Sau khi Phật dạy đành rành,
Bốn ban phật tử rất mừng, rất vui.


Thảy một lòng vâng theo lời Phật,
Và kính thành tin chắc vẹn tuyền,
Đồng nhau tựu tại Phật tiền, Nhứt tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.


Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát. 
(3 lần)

BÁT NHÃ TÂM KINH


Tâm trí huệ thinh thinh rộng lớn, Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần, Làu làu một tánh thiên chân,
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh

phàm. Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt,

Cõi bờ kia một bước đến nơi,
Trải lòng tròn đủ xưa nay,
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang.

Hàng Bồ Tát danh Quán Tự Tại, Khi tham thiền vô ngại đến trong, Thẩm vào trí huệ mở thông,
Soi thấy năm uẩn đều không có gì.

Độ tất cả không chi khổ ách,
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra, Sắc, không chung ở một nhà,
Không chẳng khác Sắc, Sắc nào khác

không. Ấy Sắc tướng cũng đồng không tướng,

Không tướng y như tượng Sắc kia,

Thọ, Tưởng, Hành, Thức phân chia, Cũng lại như vậy, tổng về chơn không.

Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó,
Các pháp kia tướng nọ luống trơn, Chẳng sanh, chẳng diệt thường chơn, Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng

thêm.

Cớ ấy nên cõi trên không giới,
Thể làu làu vô ngại thường chơn,
Vốn không năm uẩn ấm thân,
Sáu căn chẳng có, sáu trần cũng không.

Thấy rỗng không mà không nhãn giới, Biết hoàn toàn thức giới cũng không, Tánh không sáng suốt đại đồng,
Vô minh chẳng có mựa hòng hết chi.

Vẫn không có thân gì già chết, Huống chi là hết chết già sao, Tứ đế cũng chẳng có nào, Không chi là trí có nào đắc chi.

Do vô sở đắc, ly tất cả,

Nhơn pháp kia đều xả nhị không, Vận lòng trí huệ linh thông,
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì.

Không quái ngại có chi khủng bố,
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên,
Tâm không, rốt ráo chư duyên,
Niết Bàn quả chứng chơn nguyên hoàn

toàn.

Tam thế phật, y đàng Bát Nhã,
Đáo Bồ Đề chứng quả chánh nhơn,
Cho hay Bát Nhã là hơn,
Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về.

Thiệt thần chú linh tri đại lực,
Thiệt thần chú đúng bực quang minh,
Ấy chú tối thượng oai linh,
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần.

Trừ tất cả nguyên nhân các khổ,
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư,
Thiên nhiên chơn thiệt bất hư,
Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:

“Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.” (3 lần)


VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN

Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)

 

TÁN PHẬT A DI ĐÀ

Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán,
Đức Di Đà vô hạn lợi sanh,
Bốn mươi tám nguyện viên thành,
Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời.

Kim sắc tướng muôn ngàn công đức,
Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng,
Bạch hào hiển hiện phóng quang,
Xoay vần chiếu sáng vi san năm tòa.

Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại,
Sáng trong ngần tứ đại hải dương,
Hào quang hóa phật khôn lường,
Hóa chúng Bồ Tát số đương hằng hà.

Độ chúng sanh liên hoa chín phẩm,
Nước Lạc Bang là cảnh Tây phương,
Chí thành thập niệm chiêu chương,
Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng 
sanh.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Đại Từ Đại Bi, A Di Đà Phật.

Nam mô A Di Đà Phật. (21 lần)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần) Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

 

SÁM VU LAN

Đệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm vũ huy hoàng
Đốt hương đảnh lễ
Mười phương tam thế
Phật pháp thánh hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo

Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành Mẹ dày gian khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ

Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Đem đường học đạo
Đệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn

Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Đạo tràng thanh tịnh
Tăng bảo trang nghiêm
Hoặc thừa tự tứ

Hoặc hiện tham thiền
Đầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:

Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Đượm nhuần mưa pháp Còn tại thế:
Thân tâm an ổn

Phát nguyện tu trì
Đã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành phật quả
Ngưỡng mong các đức Như Lai

Khắp cõi hư không Từ bi gia hộ.


Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát. (3 lần)

PHÚNG KINH

Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.

Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung,
Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cộng thành Phật đạo.

 

TAM QUY Y

Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giai đại đạo, phát vô thượng tâm.


Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.


Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.

HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức nầy,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh,
Đều trọn thành phật đạo.