Nghi Thức Sám Hối Sáu Căn

Thứ Tư, 20 Tháng Tư 20169:47 SA(Xem: 3868)
Nghi Thức Sám Hối Sáu Căn

Nghi Thức
SÁM HỐI SÁU CĂN

 

 (Dựa theo “Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi”

 của vua Trần Thái Tông, Việt-nam)

Khải bạch


Nghi Thức Sám Hối này do cư sĩ Hạnh Cơ soạn và chú thích. Nội dung của nghi thức đã được dịch từ bài “Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi” (bằng Hán văn) của vua Trần Thái Tông (1218-1277). Nghi thức đã được lựa chọn và sắp xếp lại thành chỉ có một thời, khác với nguyên tác. Theo nguyên tác (trong tác phẩm Trần Thái Tông Ngự Chế Khóa Hư), vua Trần Thái Tông đã soạn sáu nghi sám hối riêng biệt cho sáu thời trong một ngày đêm (khuya, sáng, trưa, chiều, đầu hôm, nửa đêm); mỗi thời, sám hối tội lỗi của một trong sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), có nghi thức đầy đủ từ lúc dâng hương cho đến khi hồi hướng.

Trộm nghĩ, Việt-nam vốn đã có nghi thức sám hối riêng của mình từ gần ngàn năm trước, nhưng lại không được sử dụng phổ biến, mà trong thiền môn, từ lâu nay, chỉ có những nghi thức sám hối của Trung-hoa được sử dụng. Vì vậy, để tỏ lòng tôn kính hướng về cội nguồn quí báu của Tổ Tiên Dân Tộc, nghi thức này đã được tuyển dịch và soạn ra. 

Kính cẩn,
Cư sĩ Hạnh Cơ NGUYỄN HỮU LỢI Edmonton,
Gia-nã-đại, đầu đông năm 2000 (PL. 2544)

NGHI THỨC SÁM HỐI SÁU CĂN

1. Thiền tọa

(10 phút – mục đích là để điều hòa thân tâm trước khi vào nghi lễ Sám Hối)

2. Dâng hương

(đại chúng cùng quì, lắng nghe và quán tưởng theo lời xướng của vị Chủ lễ)

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Kính bạch Đại Giác Thế Tôn

Đại chúng hòa hợp tề tựu trước nghiêm đài Dâng nén hương thơm trùm pháp giới Hương này do âm dương hội tụ  Trời đất(1) sinh thành  Công vun trồng trải đã nhiều đời  Lại được sức chư thần(2) bảo hộ Gốc rễ vững vàng, Từng nhờ thấm nhuần mưa pháp Thể chất thanh khiết Từng nương bóng mát mây từ Giống kì lạ không thể sánh cùng cây thường Hương thơm trong lành người phàm khó biết Vừa châm vào lửa, cắm lên lư vàng Liền kết thành lọng báu tầng tầng Bay thẳng lên không trung  Dùng làm lễ dâng trước Phật

Chúng con tin sâu sắc Cùng một dạ chí thành Nguyện hương thơm vi diệu Xông khắp cõi mười phương Cúng dường vô lượng Phật Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng Rời khỏi đài quang minh Đến vô biên Phật độ Thi hành các Phật sự Ơn nhuần khắp chúng sinh Đều phát tâm bồ đề

Đất tâm (3) đà rộng mở Muôn hoa nở thắm tươi
Chúng con dâng cúng Phật Gió nghiệp lặng đời đời

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát (3 lần)

3. Lễ Tam Bảo

• Nhất tâm kính lễ Phật Bảo thường trụ trong mười phương (1 lạy)

• Nhất tâm kính lễ Pháp Bảo thường trụ trong mười phương (1 lạy)

• Nhất tâm kính lễ Tăng Bảo thường trụ trong mười phương (1 lạy)

4. Khai thị 1 (quì – vị Chủ lễ đọc lời khai thị, đại chúng lắng nghe)

Thưa đại chúng! Đi lại dễ dàng trên bộ hay dưới sông là nhờ có xe, thuyền; rửa sạch trần cấu nơi thân tâm là nhờ sám hối. Muốn rửa sạch thân tâm mà không dùng phương pháp sám hối thì cũng giống như muốn đi lại dễ dàng mà không dùng xe thuyền. Công năng của việc sám hối thật là to lớn, như kinh Đại Tập nói: “Áo dơ dù để cả trăm năm, nhưng giặt trong một ngày thì có thể sạch sẽ. Cũng vậy, các nghiệp xấu đã tích tụ hàng trăm ngàn kiếp, nếu biết quán chiếu bằng trí tuệ của Phật, thì có thể tiêu trừ sạch hết chỉ trong một ngày hoặc một giờ.”

Vả lại, chúng sinh vốn có tính giác trọn vẹn, sáng suốt thanh tịnh, trong lặng như thái hư, một hạt bụi cũng không dính được. Nhưng vì do bọt vọng tưởng nổi dậy mà uế độ(4) hiện thành, phân chia có năng và sở, Phật và chúng sinh, ngu và trí v.v..., căn tánh đều sai khác. Nếu chỉ bày ra một cửa thì thật khó ngộ nhập, cho nên đức Phật của chúng ta đã dùng trí nguyện rộng lớn, mở cửa phương tiện, tùy lối mà chỉ cho đường về, ứng theo bệnh mà cho thuốc uống. Vì biết rõ các huyễn cấu nơi chúng sinh chỉ là do vọng tưởng phát sinh, nên khuyên phải nhất tâm kiền thành qui y sám hối; khiến cho gió lặng sóng yên, bụi sạch gương sáng, thân tâm thanh tịnh, tự tại như xưa. Vì sao được như vậy? Vì phút trước tâm xấu xa, như mặt trăng bị mây che, mà phút sau tâm đã trở nên tốt đẹp, như bó đuốc quét sạch bóng tối. Ôi! Chẳng phải là công đức sám hối lớn lao đến như vậy sao! (3 tiếng chuông, đại chúng đứng dậy)

5. Lời sám hối tổng quát
(đại chúng đồng tụng theo tiếng khánh)

Chí tâm sám hối Đệ tử chúng con Từ vô lượng kiếp Sáu căn sai quấy Bỏ mất bản tâm Không biết đường ngay Đọa ba ác đạo Không sám tội trước Khó hối lỗi sau

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng thường trụ trong mười phương (3 lạy)

6. Sám hối tội lỗi của nhãn căn
(đại chúng đồng tụng theo tiếng khánh)

Kính bạch Thế Tôn Căn mắt chúng con Cái xấu xem kĩ Việc thiện qua loa Nhận lầm không hoa(5) Bỏ quên trăng thật Thương ghét khởi niệm Đẹp xấu tranh giành Liếc xéo nhìn xiên Che mờ chánh kiến Xanh đi trắng đến Tím phải vàng sai(6) Mọi thứ nhận lầm Khác gì mù mắt Gặp người nhan sắc Nhìm trộm liếc ngang Mê tối kiếp xưa Bản lai diện mục(7) Thấy người giàu có Nhìn ngó đăm đăm Gặp kẻ nghèo hèn Không thèm để ý Khi thân nhân chết Lệ máu đầm đìa Người khác qua đời Ráo khô nước mắt Hoặc thấy Tam Bảo Hoặc vào già lam Trước tượng trước kinh Lơ là không thiết Phòng tăng điện Phật Trai gái cợt đùa Mắt liếc mày đưa Đắm mê sắc dục Không sợ Hộ Pháp Không trọng Long Thần Hớn hở ham vui Đầu chưa từng cúi Tội lỗi như thế Vô lượng vô biên Đều do mắt sinh Phải sa địa ngục Trải hằng sa kiếp Mới được làm người Dù được thân người Lại bị đui chột Nếu không sám hối Thật khó tiêu trừ Nay trước Phật đài Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng thường trụ trong mười phương (3 lạy)

7. Sám hối tội lỗi của nhĩ căn

Kính bạch Thế Tôn Căn tai chúng con Ghét nghe giáo pháp Thích những lời tà Quên mất bản tâm Chỉ lo vọng ngoại Sáo đàn huyên náo Gọi khúc long ngâm(8) Tiếng mõ tiếng chuông Cho là tiếng ếch Hát tình ca thảm Chú ý lắng nghe Lại để ngoài tai Câu kinh lời kệ Thoáng nghe khen hão Khấp khởi mong cầu Nói rõ lời lành Không màng đón nhận Bạn chơi bạn rượu Chuyện ngắn chuyện dài Sư trưởng dạy khuyên Bịt tai không đoái Tiếng vòng tiếng xuyến Liền nảy lòng tham Nghe nửa câu kinh Liền thành tai ngựa Tội lỗi như thế Vô lượng vô biên Đầy ắp bụi trần Kể sao cho xiết Hiện báo vừa hết Liền đọa tam đồ(9) Khi được thân người Lại làm người điếc Nếu không sám hối Thật khó tiêu trừ Nay trước Phật đài Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng thường trụ trong mười phương (3 lạy)

8. Sám hối tội lỗi của tị căn

Kính bạch Thế Tôn Căn mũi chúng con Thường ham mùi lạ Trăm thứ chan hòa Chẳng thích chân hương Năm phần thanh tịnh(10) Xạ lan(11) sực nức Mê luyến tìm cầu Giới định thơm lừng Chưa từng để mũi Trầm xông hương đốt Đặt trước Phật đài Ngửi trộm ngông nghênh Hít hơi phẩy khói Ý thức trần tục Khinh mạn Long Thần Chỉ biết đam mê Mùi hương trái đạo Mặt đào má hạnh Đeo dính chẳng lìa Cây giác hoa tâm Gọi về không ngó Hoặc ra phố chợ Hoặc vào nhà trù Thấy bẩn(12) muốn ăn Thèm mùi lông thú Tỏi hành không tránh Tanh hôi chẳng hiềm Mê đắm không dừng Như heo dầm ổ Hoặc hỉ nước mũi Hoặc búng sáp vàng(13) Bôi cột quẹt thềm Bẩn dơ đất tịnh Say mèm nằm ngủ Điện Phật phòng tăng Hơi thở hôi nồng Hun(14) kinh xông tượng Ngửi mùi son phấn Thành kẻ dâm ô Ngửi mùi sen thơm Thành ra kẻ trộm Không hay không biết Đều do nghiệp mũi Tội lỗi như thế Vô lượng vô biên Khi xả mạng rồi Đọa ba đường khổ Trải hằng sa kiếp Mới được làm người Dù được thân người Lại cam mũi tịt Nếu không sám hối Thật khó tiêu trừ Nay trước Phật đài Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng thường trụ trong mười phương (3 lạy)

9. Sám hối tội lỗi của thiệt căn

Kính bạch Thế Tôn Căn lưỡi chúng con Ham đủ các vị Rành rẽ tinh thô Thức thức nếm qua Béo gầy đều biết Giết hại sinh vật Nuôi dưỡng thân mình Chiên rán cá chim Nấu hầm cầm thú Đầy miệng thịt máu Kín ruột tỏi hành Vừa hết đòi thêm Ăn hoài không đủ Đàn chay gặp hội Lễ Phật cầu thần Đành để bụng không Đợi khi hoàn mãn Ăn chay buổi sáng Cơm ít nước nhiều Cháo thuốc qua loa Giống như người bệnh Tít mắt mỡ thịt Cười nói oang oang Rượu chuốc cơm mời Nguội đi nóng tới Cưới gả con cái Thết tiệc đãi đằng Sát hại chúng sinh Chỉ vì cái lưỡi Đặt điều nói dối Thêu dệt lắm lời Đâm thọc hai chiều Lại thêm ác khẩu Nhục mạ Tam Bảo Nguyền rủa song thân Khinh rẻ thánh hiền Lừa vua dối chúa Bàn bạc bươi móc Hay dở chuyện người Thị phi chính mình Tìm phương dấu diếm Bình luận kim cổ Khen chê đó đây Nịnh bợ nhà giàu Lăng nhục kẻ khó Chửi mắng tôi tớ Xua đuổi tăng ni Nói lời dèm pha Thật là độc địa Nói lời gian xảo Êm như tiếng ru Thật nói thành hư Vẽ tô điều quấy Oán hờn thời tiết Phỉ nhổ non sông Tán gẫu phòng tăng Huyên thuyên điện Phật Tội lỗi như thế Vô lượng vô biên Nhiều như trần sa Đếm sao cho hết Mạng này vừa chết Cảnh khổ đọa vào Kéo lưỡi trâu cày Đồng sôi rót miệng Thọ báo muôn kiếp Mới lại làm người Dù được thân người Suốt đời câm ngọng Nếu không sám hối Thật khó tiêu trừ Nay trước Phật đài Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng thường trụ trong mười phương (3 lạy)

10. Sám hối tội lỗi của thân căn

Kính bạch Thế Tôn Căn thân chúng con Tinh cha huyết mẹ Giả hợp nên hình Năm tạng trăm xương Cùng nhau kết tụ Chấp là thân thật Quên mất pháp thân Sinh sát đạo dâm Thành ra ba nghiệp Đây là nghiệp sát Bạo ngược lộng hành Không phát lòng từ Bốn loài một thể Vì không biết rõ Giết hại mặc tình Hoặc là giết lầm Hoặc là cố ý Hoặc tự mình giết Hoặc bảo người làm Hoặc tìm thầy bùa Thuật tà trù ếm Hoặc làm thuốc độc Dùng hại sinh linh Tính chỉ hại người Không hề thương vật Hoặc đốt rừng núi Lấp cạn suối khe Xua chó thả ưng Giăng chài bủa lưới Móng tâm khởi ý Cử động hành vi Thấy nghe vui theo Đều là tội sát Đây nghiệp trộm cắp Lòng dạ tham lam Thấy tài vật người Tâm tà móng khởi Mò túi mở tráp Bẻ khóa cạy then Lấy làm của riêng Tài sản thường trụ Không chỉ vàng ngọc Mới là tội to Cọng cỏ cây kim Đều là tội trộm Đây nghiệp dâm dục Tâm mê sắc thanh Mắt đắm phấn son Liêm trinh chẳng kể Lòng đầy tư dục Điện Phật phòng tăng Cư sĩ nữ nam Cười đùa cợt nhả Tung hoa ném quả Khều cẳng kề vai Khoét ngạch trèo tường Tội dâm tất cả Tội lỗi như thế Vô lượng vô biên Đến lúc mạng chung Liền sa địa ngục Gái nằm giường sắt Trai ôm cột đồng Trải kiếp hằng sa Mới sinh nhân thế Nếu không sám hối Thật khó tiêu trừ Nay trước Phật đài Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng thường trụ trong mười phương (3 lạy)

11. Sám hối tội lỗi của ý căn

Kính bạch Thế Tôn Căn ý chúng con Lăng xăng nghĩ ngợi Không lúc nào dừng Vướng víu tình trần Kẹt tâm chấp tướng Như tằm kéo kén Càng buộc càng bền Bướm lao vào đèn Tự thiêu tự nướng Hôn mê không tỉnh Điên đảo phát sinh Nhiễu loạn tâm thần Đều do ba độc Tội đầu của ý Keo kiệt tham lam Ghen ghét mưu mô Của mình thì tiếc Của người vơ vét Vốn ít lời nhiều Của chứa tợ sông Vẫn cho chưa đủ Như hũ lủng đáy Rót vào trống không Chẳng bao giờ đầy Thà để gạo mốc Thà để tiền mục Không giúp người nghèo Vải chất lụa chồng Mặc ai đói rách Được người trăm lạng Không kể là nhiều Bỏ ra một đồng Bảo mình hao lớn Trên từ châu báu Dưới đến tơ gai Kho đụn chứa đầy Chưa từng bố thí Bao nhiêu sự việc Ngày tính đêm lo Mỏi trí lao tâm Đều từ tham nghiệp Đây tội sân hận Gốc bởi lòng tham Lửa giận bốc lên Nạt nộ trợn mắt Đốt tiêu hòa khí Không riêng kẻ phàm Cả đến tăng ni Tranh đua công kích Khích bác sư trưởng Chỉ trích mẹ cha Cỏ nhẫn úa vàng Lửa độc rực cháy Buông lời hại vật Cất tiếng hại người Không nhớ Phật từ Không tuân giới luật Hí luận thì giỏi Đối cảnh lại ngu Dù ở cửa không Chưa thông vô ngã Như cây sinh lửa Lửa đốt cháy cây Những tội trên đây Đều do sân nghiệp Đây tội si độn Căn tính ngu đần Ý thức tối tăm Tôn ti không rõ Không phân thiện ác Giết gấu gẫy tay Chặt cây hại thân Mắng Phật mang họa Phun trời ướt mặt(15) Quên đức quên ơn Bội nghĩa bội nhân Không tỉnh không xét Đều là si nghiệp Những tội như trên Rất nặng rất sâu Khi bỏ thân mạng Sa vào địa ngục Trăm ngàn kiếp sau Mới được làm người Chịu báo ngu dốt Nếu không sám hối Thật khó tiêu trừ Nay trước Phật đài Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng thường trú trong mười phương (3 lạy)

12. Khai thị 2
(quì – vị Chủ lễ đọc lời khai thị, đại chúng lắng nghe)

Thưa đại chúng! Gốc thân không vững, bản mệnh khó an. Phàm là người đầu đội trời, không tránh khỏi nhãn quang rơi xuống đất(16). Một sớm chợt sẩy tay, muôn kiếp khó được lại thân người. Mặt trời lên đến giữa trời thì phải xế, người đời có thịnh ắt có suy. Hình thể chẳng bền lâu, giàu sang không giữ mãi. Mau lẹ như nước chảy dưới sông, mỏng manh như mây trên đỉnh núi. Ngày thường chẳng tạo nhân lành, có lúc ắt về cảnh khổ. Hãy khởi lòng tin sâu sắc, trừ sạch nghi ngờ. Hãy mở tâm trong sáng như chư Phật, soi rọi phá tan cái thùng tăm tối chúng sinh. Nên nhớ tới cơn vô thường thấm thoắt, chớ tham phù thế xa hoa. Hãy mau kéo mũi lôi về(17), chớ để buông lòng phóng chạy. Hãy tự soi sáng nội tâm, không nên chạy tìm ngoại cảnh. Nên biết tiền trình khó tiến, chớ tham nệm ấm ngủ say. Lên giường khó bảo đảm sẽ xuống giường, đêm nay há biết được đêm mai. Cửa giác ngộ hãy tiến thẳng vào, ba đường ác chớ nên nhắm tới. Quay đầu lại nhận lấy quê mình(18), mở mắt ra tỉnh mộng phù thế. Hãy nghĩ tới bốn con rắn độc(19) đang bức bách, chớ quên hai con chuột(20) đang gặm mòn. Luân hồi ba cõi đến bao giờ, quanh quẩn bốn loài chừng nào dứt? Hãy sớm gieo giống lành, không nên khư khư tìm quả ác. Người người mau tỉnh, ai nấy siêng tu. Nên bước đi trên đường vãng sinh, hãy vịn vào xe giải thoát. Cửa ngục nào đâu, đêm nay quyết tâm phá vỡ. Dốc lòng lễ Vô Thượng Từ Dung, mở mắt thấy Đại Quang Minh Tạng. (3 tiếng chuông, đại chúng đứng dậy)

13. Pháp ngữ (vị Chủ lễ xướng)

Trống pháp rền vang dậy Đánh tan mộng thế trần Chuông chùa ngân sương sớm Thức tỉnh kiếp trầm luân Người đang say mê ngủ Còn chìm trong tối tăm Đâu biết phương Đông nọ Mặt trời sáng rỡ dần Đêm dài rồi cũng sáng Đường mờ khó thoát thân Nếu chẳng siêng hành đạo Làm sao tỏ chân tâm

14. Phát nguyện
(đại chúng đồng tụng theo tiếng khánh)

Nguyện giữ tâm ý thường trong lặng Nguyện rèn tàng thức dứt vấn vương Nguyện bao nghi ngờ đều phá vỡ Nguyện cho trăng định mãi tròn đầy Nguyện lắng pháp trần không khởi động Nguyện tránh xa lưới ái biển tình Nguyện ngưng tâm vượn thôi nhảy nhót Nguyện dừng ý ngựa dứt lăng xăng Nguyện hằng ấp ủ lời Phật dạy Nguyện vui thiền định Tổ Sư truyền Nguyện luôn thực hành hạnh Bồ Tát Nguyện vượt ba cõi chứng Chân Như

15. Hồi hướng (đại chúng đồng tụng theo tiếng khánh)

Chúng con quay về nương Thánh Chúng
Chí thành đảnh lễ đức Từ Tôn
Hồi hướng công đức khắp quần sinh
Do nhân thù thắng thành Chánh Giác

(3 lạy, hoàn mãn)

 _____________________________

CHÚ THÍCH:

(01) Âm dương, trời đất: Đây là những từ tượng trưng cho đức sinh thành, nói theo tín ngưỡng dân gian Việt-nam. Trong giáo lí nhà Phật, những từ ấy chỉ có nghĩa là “duyên sinh”, tức là bất cứ sự vật gì cũng đều do các duyên (điều kiện) hợp lại mà sinh thành.
(02) Chư thần: “Chư thần” ở đây là chỉ cho chư vị Hộ-pháp, thiện thần luôn luôn ủng hộ và bảo vệ Phật pháp.
(03) Đất tâm: Tâm chứa chủng tử của vạn pháp và làm phát sinh vạn pháp, cũng giống như đất chứa hạt giống của mọi loại cây cỏ và làm nẩy sinh mọi loại cây cỏ. Bởi vậy, TÂM thường được gọi là “đất tâm” (tâm địa). 
(04) Uế độ: là cõi dơ bẩn, tức chỉ cho những nơi mà đời sống đầy phiền não, tối tăm, đau khổ. Thế giới loài người chẳng hạn, là một loại “uế độ”. 
(05) Không hoa: là hoa đốm giữa hư không. Khi mắt bị đau, hay vừa dụi mắt xong mà nhìn lên khoảng không, chúng ta thấy như có vô số hoa đốm đủ màu nhảy múa trong không khí. Hoa đốm đó không có thật, chỉ do mắt bệnh mà hóa hiện ra.
(06) Xanh đi trắng đến, tím phải vàng sai: Đây là nói về cái tâm không bình đẳng, phân biệt chấp trước khi đứng trước sự vật. Đó là cái tâm vọng động của người không tu hành, chỉ biết chạy đuổi theo thị dục mà gây tội lỗi.
(07) Bản lai diện mục: là mặt mắt tự thuở nay. Đây là một thuật ngữ thường dùng trong thiền môn, chỉ cho chân tánh, hay Phật tánh vốn có sẵn trong mỗi chúng sinh.
(08) Long ngâm: là tên một khúc nhạc hay. Truyện “Trịnh Thuật Tổ” trong sách Bắc Tề có chép: Thuật Tổ là người chơi đàn cầm giỏi. Một đêm nằm ngủ thấy một người chơi một khúc nhạc rất hay, tỉnh dậy bèn theo đó soạn thành khúc “Long Ngâm”, được nổi tiếng đương thời.
(09) Tam đồ: là ba đường khổ, tức ba cảnh giới với ba cách hành hạ khác nhau, khiến cho chúng sinh chịu đau khổ cùng cực: 1. Hỏa đồ (cảnh giới lửa): trong cảnh giới địa ngục, chúng sinh bị lửa thiêu đốt mãnh liệt; 2. Đao đồ (cảnh giới dao): trong cảnh giới ngạ quỉ, chúng sinh vừa bị đói khát, vừa bị các thứ dao kiếm bách hại nặng nề; 3. Huyết đồ (cảnh giới máu): trong cảnh giới súc sinh, các loài vật bị loài người ăn thịt, và chính chúng cũng ăn thịt lẫn nhau.
(10) Năm phần thanh tịnh: Đây là năm thứ hương thơm thanh tịnh, gọi là “chân hương”; danh từ Phật học Hán Việt gọi là “ngũ phần hương”, gồm có: 1. Hương GIỚI: hương thơm do sự giữ gìn giới luật, các nghiệp thân ngữ ý đều thanh tịnh; 2. Hương ĐỊNH: hương thơm của sự tu tập thiền định, tất cả vọng niệm đều chìm lắng, tâm ý không còn loạn động; 3. Hương TUỆ: hương thơm của trí tuệ sáng chói, thấy biết sự vật hoàn toàn bằng chánh kiến; 4. Hương GIẢI THOÁT: hương thơm của thành quả giải thoát, không còn bị ràng buộc bởi bất cứ loại phiền não cấu uế nào; 5. Hương GIẢI THOÁT TRI KIẾN: hương thơm của bậc đã chứng đạt trí tuệ siêu việt, dứt tuyệt căn bản vô minh, thấy rõ bản tánh vốn vô nhiễm của mình, thân tâm hoàn toàn tự tại, không còn bị bất cứ điều gì làm cho chướng ngại. Năm thứ chân hương trên cũng chính là năm thứ công đức để làm nên pháp thân của chư Phật; cho nên, chữ “HƯƠNG” ở đây được dùng để ví dụ cho pháp thân của chư Phật. Bởi vậy, “ngũ phần hương” cũng tức là “ngũ phần pháp thân” (tức: giới pháp thân, định pháp thân, tuệ pháp thân, giải thoát pháp thân, và giải thoát tri kiến pháp thân).
(11) Xạ lan: chỉ cho các mùi thơm vật chất, trần tục.
(12) Bẩn: Chữ “bẩn” ở đây là chỉ cho các thức ăn có mùi tanh hôi của thịt cá, do hành động sát sinh, hoặc do những hành động bất chánh mà có.
(13) Sáp vàng: chỉ cho cứt mũi hoặc nước mũi đặc như đờm.
(14) Hun: có nghĩa như xông, ướp.
(15) Giết gấu gẫy tay, chặt cây hại thân, mắng Phật mang họa, phun trời ướt mặt: Đại ý của bốn câu này nói lên sự ngu si tối dạ của người đời, không biết điều gì là đúng, sai, phải, trái. Một anh chàng cầm rựa vào rừng giết gấu. Anh đang đi, thình lình một con gấu xông ra cắn cánh tay anh, nhưng chưa trúng. Thấy thế, anh chàng bèn cầm rựa chặt đứt lìa cánh tay kia của mình để cho con gấu khỏi cắn được! Một anh chàng khác leo lên một cây cao lớn để chặt một cành. Anh muốn chặt ở ngay chỗ sát thân cây cho cành được dài. Anh bèn leo ra ngồi ở đầu cành và xoay mặt vào để chặt phía trong. Cành cây đứt, mang theo anh ta rớt xuống đất! Một người nông dân đem lúa ra phơi, bỗng trời mưa xối xả. Ông ta giận quá, ngửa mặt lên vừa chửi trời, vừa phun nước miếng cho dơ trời. Nhưng bao nhiêu tiếng chửi của ông chỉ có ông nghe, bao nhiêu nước miếng ông phun lên đều rơi trở lại trên mặt ông! Có một bà nọ do ngoại đạo xúi giục, đã độn bụng lớn rồi đến chỗ Phật để bêu xấu, đổ thừa cho Phật đã gây ra cái bụng bầu cho bà, rồi mắng chửi Phật. Nhưng không ngờ, trong lúc bà đang mắng chửi Phật thì một con chuột ở đâu chạy tới cắn đứt cái xà rông của bà rớt xuống, làm cho bao nhiêu thứ bà độn trên bụng đều rớt xuống theo, lộ rõ lòng dạ ác độc của bà. 
(16) Nhãn quang: là sức sáng của con mắt. Nhãn quang rơi xuống đất là nói con người nhất định không thoát khỏi sự chết.
(17) Kéo mũi lôi về: Ý câu này nói, luôn luôn quán sát và điều phục tâm ý mình, không để cho nó chạy lông bông đuổi theo năm dục.
(18) Quê mình: tức là tự tánh thanh tịnh vốn có (bản lai diện mục) của mình.
(19) Bốn con rắn độc đang bức bách: Bốn con rắn độc là chỉ cho bốn yếu tố (tứ đại: đất, nước, gió, lửa) tạo nên thân người. Bốn thứ này luôn luôn chống trái lẫn nhau, làm cho thân ta chẳng lúc nào thấy an ổn. Chúng lại còm cõi, già nua theo thời gian, chỉ chực tan rã, gây cho ta bao nhiêu lo âu, phiền muộn, khổ đau.
(20) Hai con chuột đang gặm mòn: Hai con chuột là chỉ cho ngày và đêm. Ngày qua đêm đến, hết ngày lại đêm, hết đêm lại ngày; cứ thế mà thời gian trôi qua, bào mòn thân xác, cho đến ngày tàn tạ để vào cõi chết; giống như người đeo vào sợi dây treo trên miệng giếng, bị hai con chuột cứ chạy qua chạy lại, gặm nhấm lần hồi, cho đến khi sợi dây đứt, người kia rớt xuống đáy giếng tan thân.

PHỤ LỤC

KỆ BỐN NÚI (Nguyên tác Hán văn của vua TrầnThái Tông Cư sĩ Hạnh Cơ dịch ra Việt văn - 1999)   A. DUYÊN KHỞI (lời người dịch)

Mùa mưa năm đó, đức Phật an cư cùng với đông đảo chư Tăng, Ni tại tu viện Kì-viên (Jatevana), ở kinh thành Xá-vệ (Savatthi) của vương quốc Kiều-tát-la (Kosala). Một buổi chiều nọ, vua của nước Kiều-tát-la là Ba Tư Nặc (Pasenadi), đến tu viện hầu Phật. Vua tỏ ý rất hối hận, lâu nay vì công việc triều chính quá bận rộn, nên đã không tinh tấn lắm trong việc tu tập. Vua hứa với Phật là từ nay phải để thêm nhiều thì giờ cho việc tu học. Phật dạy: “Đúng vậy, thưa đại vương! Bây giờ tuổi đại vương đã cao, – năm đó vua đã 70 tuổi – nếu không lo tu tập thì đại vương không còn nhiều thì giờ nữa đâu! Đại vương! Ví dụ, một vệ sĩ thân tín của đại vương từ hướng Đông chạy về báo với đại vương là có một quả núi vĩ đại đang từ phương Đông tiến dần tới đây; quả núi ấy đã nghiền nát tất cả người, sinh vật và cây cỏ trên đường nó đi qua. Tiếp đó, một người khác từ hướng Tây chạy về cũng báo với đại vương là có một quả núi vĩ đại đang từ phương Tây tiến dần tới đây. Rồi các người khác từ các hướng Nam và Bắc cũng chạy về báo với đại vương là có các quả núi vĩ đại đang từ các phương Nam và Bắc tiến dần tới đây; các quả núi ấy đều đã nghiền nát tất cả người, sinh vật và cây cỏ trên đường chúng đi qua. Đại vương biết rõ là bốn quả núi vĩ đại kia từ bốn phương sắp ập tới mình, và mạng sống của đại vương sẽ không còn kéo dài bao lâu nữa. Đại vương không còn nhiều thì giờ! Vậy đại vương sẽ làm gì trong tình huống ấy?” Vua Ba Tư Nặc suy nghĩ rất nhanh, rồi bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Theo con nghĩ, trong tình huống ấy thì con chỉ có một việc đáng làm mà thôi: Đó là, con phải sống thời gian còn lại thật xứng đáng; nghĩa là con phải sống thật trầm tĩnh và đúng theo chánh pháp.” Phật dạy: “Hay lắm, đại vương! Tôi xin nói rõ để đại vương biết: Bốn quả núi vĩ đại đó chính là bốn tướng trạng Sinh, Già, Bệnh, và Chết của đời người. Chính cái già và cái chết là những quả núi hiện đang tiến tới và vây hãm chúng ta.” Nhà vua bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Biết được cái già và cái chết đang tiến tới, con nghĩ chỉ còn một cách là con phải sống đúng theo chánh pháp, dùng những ngày tháng còn lại để làm những việc lành nào có thể làm, và xây dựng cho những thế hệ tương lai.” Nhà vua lạy Phật và trở về hoàng cung. *

Sinh, Già, Bệnh, Chết là bốn tướng trạng đau khổ, hằng vây phủ và hành hạ tất cả mọi người, không ai có thể chống lại hay vượt thoát nổi. Chỉ có tu tập theo Phật pháp để đạt được trí tuệ giác ngộ cao tột, thì mới giải thoát khỏi vòng vây của bốn quả núi to lớn kia mà thôi. Lời dạy của đức Thế Tôn về “Bốn Núi” trên đây đã được ghi lại trong các kinh Tương Ưng Bộ (thuộc tạng Pali) và Tạp A Hàm (thuộc tạng Hán). Trên bước đường tu học Phật pháp, vua Trần Thái Tông (1218-1277) của nước ta đã rất lấy làm tâm đắc về đoạn kinh “Bốn Núi” này, và đã lấy cảm hứng từ đó mà viết nên bài văn “Tứ Sơn” (bốn núi), nêu lên các đề tài thiền quán quan trọng trong thiền môn. Bài văn viết bằng chữ Hán, được in chung với những bài văn khác của nhà vua, trong tác phẩm thiền học nổi tiếng của Phật giáo Việt-nam: KHÓA HƯ LỤC (tức Trần Thái Tông Ngự Chế Khóa Hư). Bài văn “Tứ Sơn” này gồm có năm đoạn văn viết bằng thể biền ngẫu, diễn giải ý nghĩa của bốn quả núi: Đoạn đầu nói một cách tổng quát về thực trạng rằng, bởi vì vô minh mà chúng sinh phải trôi lăn mãi trong dòng sinh tử; bốn đoạn sau, mỗi đoạn nói về tướng trạng của một quả núi: SINH, LÃO, BỆNH, TỬ, nêu rõ ý thức về tính chất vô thường của đời người. Mỗi đoạn văn trên đều được kết thúc bằng một bài kệ thơ; bài kệ đầu viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, bốn bài sau theo thể thất ngôn bát cú. Ở đây chúng tôi chỉ xin dịch năm bài kệ thơ ấy mà thôi.

B. KỆ BỐN NÚI (phiên âm và dịch)

1) TỨ SƠN KỆ

Tứ sơn tiễu bích vạn thanh tòng Ngộ liễu đô vô vạn vật không Hỉ đắc lư nhi tam cước tại Mạch ki đả sấn thướng cao phong

Dịch: BÀI KỆ BỐN NÚI

Bốn núi cao chót vót Sum sê muôn cây rừng Tuệ giác nhìn vạn vật Tất cả thảy đều không Hãy cưỡi lừa ba cẳng Lên thẳng đỉnh tột cùng

2) NHẤT SƠN (Sinh)

Chân tể huân đào vạn tượng thành Bản lai phi triệu hựu phi manh Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm Khước bội vô sinh thụ hữu sinh Tị trước chư hương thiệt tham vị Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách Nhật viễn gia hương vạn lí trình

Dịch:

NÚI THỨ NHẤT (Sinh)

Do nhân duyên hun đúc Vạn pháp được sinh thành Vốn không phải điềm báo Cũng không thuần mầm xanh Vì bỏ quên vô niệm Hữu niệm liền phát sinh Kiếp vô sinh đã trái Hữu sinh phải nhận hình Mũi lưỡi tham hương vị Mắt tai đắm sắc thanh Quê nhà ngày xa mãi Kiếp phong trần lênh đênh

3) NHỊ SƠN (Lão)

Nhân sinh tại thế nhược phù âu Thọ yểu nhân thiên mạc vọng cầu Cảnh bức tang du tương hướng vãn Thân như bồ liễu tạm kinh thu Thanh điêu tích nhật Phan lang mấn Bạch biến đương niên Lã Vọng đầu Thế sự thao thao hồn bất cố Tịch dương Tây khứ thủy Đông lưu

Dịch:

NÚI THỨ HAI (Già)

Đời người như bọt nước Thọ yểu chớ vọng cầu Mặt trời đà xế bóng Bồ liễu dần sang thu Mới ngày nào trẻ đẹp Giờ đây đã bạc đầu Việc đời trôi cuồn cuộn Ngoảnh lại ích gì đâu Hướng Tây mặt trời lặn Về Đông nước chảy mau

4) TAM SƠN (Bệnh)

Âm dương khiên đức bổn tương nhân Biến tác tai truân cập thế nhân Đại để hữu thân phương hữu bệnh Nhược hoàn vô bệnh diệc vô thân Linh đan mạn sá trường sinh thuật Lương dược nan linh bất tử xuân Tảo nguyện viễn li ma cảnh giới Hồi tâm hướng đạo dưỡng thiên chân

Dịch:

NÚI THỨ BA (Bệnh)

Âm dương không hòa hợp Gây họa đến thế nhân Có thân thì có bệnh Không bệnh hẳn không thân Trường sinh cùng bất tử Chỉ dối kẻ ngu đần Gấp xa lìa ma cảnh Quay về với thiên chân

5) TỨ SƠN (Tử)

Bãi đãng cuồng phong quát địa sinh Ngư ông túy lí điếu chu hoành Tứ thùy vân hiệp âm mai sắc Nhất phái ba phiên cổ động thanh Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh Tạm thời trần liễm thiên biên tịnh Nguyệt lạc trường giang dạ kỉ canh

Dịch: NÚI THỨ TƯ (Chết)

Một trận cuồng phong thổi Mịt mù cát bụi bay Ngư ông say túy lúy Mặc cho chiếc thuyền quay Bốn phương trời u ám Vần vũ lớp lớp mây Sầm sập mưa xối xả Lô xô sóng bủa vây Ầm ầm tiếng sét nổ Xe sấm tít mù xoay Phút giây trời quang tạnh Bụi lắng gió ngừng lay Trong lòng sông vắng lặng Còn lại mặt trăng đầy.


 

 

Trần Thái Tông