Phẩm Thứ Mười: Thủ Không

Thursday, 04 August 202210:38 AM(View: 829)
Phẩm Thứ Mười: Thủ Không

SỐ 226
KINH BÁT-NHÃ BA LA MẬT SAO
Hán dịch: Phù Tần, Thiên Trúc Sa môn Đàm-Ma-Ty và Trúc-Phật-Niệm
Dịch Hán ra Việt: Thích nữ Tâm Thường

(Ni viện Diệu Quang – Nha Trang)

 

Quyển thứ năm

Phẩm thứ mười: Thủ không


T
u Bồ Đề bạch Phật:


– Thế nào là không? Không tham nơi hành động? Thế nào là thủ không tức là tam muội?


Phật bảo Tu Bồ Đề:


– Đại Bồ tát thực hành Trí độ, quán sắc không, quán thọ, tưởng, hành, thức không. Người quán như vậy là nhứt tâm. Như chỗ đã quán, đối với pháp cũng không thấy, ngay nơi pháp nhưng không chấp vào sự chứng đắc.


Tu Bồ Đề bạch Phật:


– Phật đã dạy không dùng “không” để chấp vào sự chứng đắc. Vậy thế nào là Đại Bồ tát ngay nơi tam muội không dùng không để chấp vào sự chứng đắc?


Phật bảo Tu Bồ Đề:


– Đại Bồ tát này quán tất cả sắc có ra đều là không, cũng không chấp vào sự chứng đắc. Người quán như vậy là không chấp vào sự chứng đắc, không chấp vào sự chứng đắc tức là không tham. Vậy nên quán do không tham đó tức là quán. Khi muốn hướng đến việc này nhưng không chấp vào sự chứng đắc, không tham, lúc đó tâm không nghĩ đến nhơn duyên tam muội. Như vậy là nghĩ. Bấy giờ vì không mất pháp gốc của Bồ tát, không chứng đắc giữa đường.
Vì sao? – Vì pháp công đức đã tạo rất thậm thâm. Ngay khi ấy không tham nên không chấp vào sự chứng đắc, do được thủ hộ từ Trí tuệ độ. Ví như có người hoặc mạnh mẽ bạo dạn có thể đẩy lui quân địch, là người đoan chánh khỏe mạnh, làm được tất cả mọi việc, biết tất cả sáu mươi bốn cách biến đổi của binh pháp, hiểu rõ tất cả năm sách lược về binh, được mọi người cung kính. Ngay nơi chỗ ở hay đi đến chỗ nào đều lợi ích cho tất cả. Từ chỗ sở đắc này lần lượt phân chia cho mọi người. Người có tâm như vậy được mọi người hoan hỷ. Nếu có những sự việc khác cùng cha mẹ, vợ con trải qua tai nạn rất nguy kịch, người đó liền trấn an cha mẹ, vợ con mình rằng: “Chớ có sợ hãi, khủng khiếp! Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau ra khỏi nạn này”. Nếu ngay trong chỗ đó, quân lính oan gia đến, người này thông tuệ nên ngay khi đó đưa cha mẹ, vợ con mình trở về quê quán được hoàn toàn an ổn, không gặp điều chẳng lành, và đối với oan gia cũng không gây thương tổn. Vì sao? – Vì nhờ hiểu biết tất cả. Người này dõng mãnh biến hóa hơn oan gia, oan gia thấy người này rất sợ hãi và đều bỏ chạy. Cha mẹ vợ con người này được ra khỏi chỗ tai nạn, trở về quê quán của mình, tất cả đều rất hoan hỷ.


Như vậy, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát đối với tất cả mọi người có lòng thương rất lớn. Bấy giờ Đại Bồ tát đem tâm từ ban bố cho tất cả mọi người vượt qua các bè đảng nhơ nhớp của ma, lại vượt lên trên địa vị Thanh văn, Bích Chi Phật đạo, Bồ tát an trú ổn định trong tam muội nhưng không có chỗ tận cùng. Nhờ Trí tuệ độ nên đối với “không” không tham.


Khi làm việc như vậy, Đại Bồ tát này là người thực hành tam muội không, hướng đến pháp môn giải thoát. Cũng không dùng hữu tướng, không dùng vô tướng, nên không chấp vào sự chứng đắc, giống như chim bay.


Tu Bồ Đề! Chim bay giữa hư không không hề chướng ngại. Đại Bồ tát này là người thực hành “không“, đạt đến “không”; hướng “vô tướng”, đạt đến “vô tướng”; hướng “vô nguyện”, đạt đến “vô nguyện”, không bị không, vô tướng, vô nguyện làm thối đọa nên sẽ được đầy đủ tất cả các pháp của chư Phật.

Tu Bồ Đề! Ví như người thợ bắn, bắn lên hư không, mũi tên này ở giữa hư không. Lại lấy mũi tên thứ hai bắn trúng mũi tên trước. Sau lại lấy mũi tên thứ ba bắn trúng mũi tên giữa. Cả ba mũi tên đều trúng nhau nhưng không rơi xuống đất. Người này muốn làm cho mũi tên trước rơi xuống thì cả ba mũi mới rơi. Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát thực hành Trí tuệ độ vì được phương tiện quyền xảo hộ trì, tự mình đối với cứu cánh không chấp vào sự chứng đắc giữa đường, công đức này thành tựu viên mãn, mong cho tất cả đạt được Vô thượng Chánh giác. Ngay nơi công đức đã thành tựu viên mãn, được thành Phật, có thể chứng đắc cứu cánh. Đại Bồ tát này là người thực hành Trí độ, là pháp ngay nơi pháp có sanh.


Tu Bồ Đề bạch Phật :


– Đại Bồ tát thật khổ nhọc học pháp học này nhưng không chấp vào sự chứng đắc giữa đường. Thật lành thay! Kính bạch Thiên Trung Thiên, từ hạnh gốc là an ổn tự mình đạt thành Phật.


Phật bảo Tu Bồ Đề:


– Đại Bồ tát muốn cứu giúp tất cả mọi người, đây là đạt đến cứu cánh luôn cứu giúp tất cả để được độ thoát, đây là thủ tam muội “không”, hướng đến môn giải thoát với tâm niệm phân biệt.


Những gì là phân biệt? – Thủ không tam muội là phân biệt. Vô tướng tam muội là phân biệt. Vô nguyện tam muội là phân biệt, nhưng không chấp vào sự chứng đắc giữa đường cho là cứu cánh. Vì sao? – Vì được sự thủ hộ của phương tiện quyền xảo. Khi mới phát tâm nghĩ muốn thủ hộ tất cả nên nhờ ý nghĩ này được nhập phương tiện quyền xảo, nên không chấp vào sự chứng đắc giữa đường.


Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát nào thâm nhập vào chỗ giải thoát hoặc Không tam muội hướng đến thoát môn, Vô tướng tam muội hướng đến thoát môn, Vô nguyện tam muội hướng đến thoát môn, dựa vào đó mà phân biệt, người này đến nay đã trồng nhơn ấy rất lâu xa, thì biết rằng việc làm này làm cho bỏ nhơn đã gây. Đó là pháp Vô thượng Chánh giác đã thuyết. Đây là thủ Không tam muội hướng đến thoát môn, thủ Vô tướng tam muội hướng đến thoát môn, thủ Vô nguyện tam muội hướng đến thoát môn. Đây là vô nguyện tam muội hướng đến thoát môn, tâm người đó đã phát nhờ phương tiện quyền xảo, không chấp vào sự chứng đắc giữa đường làm cứu cánh. Đây là đối với lòng từ không tổn giảm. Đây là tam muội từ bi hỷ xả. Vì sao? – Vì nhờ phương tiện quyền xảo, Đại Bồ tát này được pháp làm lợi ích nên liền được nhiều trí tuệ, thành tựu khả năng biết hết tất cả.


Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát nghĩ: “Người này từ lâu xa đến nay đã được pháp làm cho được lợi ích, đạt được trí tuệ, thành tựu khả năng hiểu biết hết tất cả.


Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đó là Đại Bồ tát nghĩ biết người từ xưa đến nay có tưởng có thức, nên cho rằng có ngã. Khi tu Vô thượng chánh giác, nhờ tất cả mọi người nên vì họ thuyết pháp, đó là làm cho họ tạo nên tam muội vô tướng, phát tâm nghĩ hướng đến thoát môn. Đây là phương tiện quyền xảo. Nhờ đây nên không chấp vào sự chứng đắc giữa đường làm cứu cánh. Đây là đối với lòng từ không tổn giảm. Đây là tam muội từ bi hỷ xả. Đây là Đại Bồ tát được pháp làm lợi ích, đạt được sự hiểu biết, thành tựu khả năng hiểu biết hết tất cả.


Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát này nghĩ: “Con người từ lâu xa đến nay tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng không, tưởng hiện tại, Bồ tát nghĩ: khi ta đạt được Vô thượng Chánh giác là nhờ tất cả mọi người nên ta vì họ thuyết pháp. Vô thường là từ lạc, không là từ hữu, vô ngã là từ ngã”. Nhờ nghĩ như vậy nên đắc phương tiện quyền xảo. Đây là hành Trí độ, biết Phật không tam muội mà ngồi tam muội, chỉ muốn đầy đủ các pháp của chư Phật. Đó là vô nguyện hướng đến thoát môn, nhưng không chấp vào sự chứng đắc.


Đại Bồ tát nên biết như vậy. Làm như thế nào để biết? Dựa vào đâu để phát tâm Vô thượng Chánh giác. Người đã phát tâm là người từ lâu xa đến nay chỗ làm  của người đó là không làm. Có hành tưởng mà không hành tưởng. Có mong cầu hành tưởngmà không hành tưởng. Có hành tưởng tụ mà không hành tưởng tụ. Cóhành hữu mà không hành sở hữu. Tuy rằng có làm việc bấât chánh  nhưng không có ý nghĩ bất chánh. Làm cho tất cả mọi người đều được “không”. Đại Bồ tát này khi nghĩ như vậy là do sáng suốt đối với tất cả mọi người. Khi nghĩ như vậy là phương tiện quyền xảo, đó là vi diệu thậm thâm để thấy được pháp ấy. Vậy nên đó tức là “không”, tức là vô tướng, vô nguyện. Đó là vô sanh tử, tức là vô sở sanh, là vô sở hữu. Vậy nên Tu Bồ Đề là Đại Bồ tát có pháp Trí tuệ, là “vô sở sanh”. Người này ở trong ba cõi nhưng có những người không biết, đến hỏi: “Đại Bồ tát này muốn thành tựu Vô thượng Chánh giác, do đó nên muốn biết pháp này. Sẽ làm thế nào để phát tâm trân bảo? “. Đối với Đại Bồ tát không lấy “không” để chấp vào sự chứng đắc, cũng không lấy vô tướng, vô nguyện, vô sanh tử, vô sở sanh, cũng không dùng vô niệm chứng đắc. Đó là niệm Trí độ.


Vậy nên, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát đã được thọ ký, sự suy nghĩ như không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh tử, vô sở sanh. Nghĩ như không có, nó vốn là không. Người không phát thiện tâm không thể biết được việc này. Người có thể hiểu đó là Đại Bồ tát, là người từ nơi Phật quá khứ được nghe việc Vô thượng Chánh giác, tâm người đó do không thay đổi. Vì sao? – Vì lại co đại Bồ tát nghĩ đến pháp nhưng không thể sáng suốt. Có người hỏi cũng không thể giải thích cho họ biết. Đây là người chưa ở địa vị Bồ tát đạo, người không ở cảnh giới ấy thì chưa đạt được Bất thối.


Phật bảo Tu Bồ Đề:


– Nếu không nghe Trí độ dạy, có người nghe hoặc không nghe, có thể giải thích về Trí tuệ này, đại Bồ tát này là Bất thối.


Tu Bồ Đề bạch Phật:


– Bồ tát như đây rất nhiều, kính bạch Thiên Trung Thiên. Ít người có thể hiểu được.


Phật bảo Tu Bồ Đề:


– Ít có Bồ tát ở địa vị Trí tuệ Bất thối hiểu được, mà người được thọ ký mới có  thể hiểu được. Đại Bồ tát này có công đức rất lớn, không phải là chư thiên,
nhơn, A tu luân ở thế gian hiểu biết được.