Tông này thuộc về Đại thừa, căn cứ theo giáo nghĩa trong kinh Hoa Nghiêm là một bộ kinh cao nhất mà đức Phật đã nói ra, nên gọi là Hoa Nghiêm tông.
Người sáng lập ra tông này là ngài Đỗ Thuận một vị Hòa thượng đời Đường. Ngài đã thâu góp ý nghĩa mầu nhiệm của kinh Hoa Nghiêm, làm ra ba bộ “Pháp giới quán”.
Người kế vị ngài Đỗ Thuận là Ngài Trí Nghiễm, ở chùa Chí Tướng. Ngài Trí Nghiễm đã làm ra nhiều bộ luận có giá trị để giải bày nghĩa lý của Tông này như các bộ: “Sưu huyền ký”, “Thập huyền môn”, “Ngũ thập yếu vấn đáp”.
Vị thừa kế ngài Trí Nghiễm và đã có nhiều công nghiệp lớn đối với Tông này là ngài Pháp Tạng, cũng gọi là Hiền Thủ quốc sư. Ngài đã làm ra bộ “Thám huyền ký” và nhiều chương sớ khác, khiến cho Hoa Nghiêm tông rất được thịnh hành và phát triển trong đời Ngài. Do đó, Tông này cũng thường gọi là Hiền Thủ tông. Sau khi Ngài Hiền Thủ qua đời được ít lâu, kinh Hoa Nghiêm được dịch lại bằng Hán văn bộ mới, ngài Trung Quán, tức là Thanh Lương quốc sư, dựa theo ý nghĩa bộ Hoa Nghiêm mới dịch này mà làm ra bộ “Hoa Nghiêm sớ sao”, bày giải nghĩa lý rộng rãi, sâu xa mầu nhiệm của kinh Hoa Nghiêm. Vì thế, Hoa Nghiêm tông lại càng được người đời sùng mộ, nhất là trong giới thượng lưu trí thức nước Tàu.
Trong các bộ kinh của đức Phật, kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh có ý nghĩa cao siêu, mầu nhiệm nhất. Chỉ những vị đại đệ tử, căn cơ minh mẫn, lanh lẹ mới có thể hiểu thấu được. Do đó, Hoa Nghiêm tông chỉ thích hợp với những ai đã có một căn bản Phật pháp vững chắc và đã quen với lối suy luận trừu tượng của giáo lý nhà Phật. Đem một giáo lý uyên thâm của Phật pháp ra trình bày trong một tập sách phổ thông như thế này, thật khó mà nói cho rõ ràng, đầy đủ nghĩa lý của Hoa Nghiêm tông. Tuy thế, để có một bộ sách gồm đầy đủ mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa, và để quý độc giả có đủ tài liệu để so sánh sự sai khác của mỗi tông, chúng tôi không thể không nói đến Hoa Nghiêm tông trong khi điểm qua tông chỉ và giáo lý căn bản của mười tông. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một cách giản dị, gọn gàng về giáo lý đặc sắc của tông này, và cũng mong mỏi quý độc giả theo dõi một cách chăm chú sự trình bày này, ngõ hầu vấn đề được sáng tỏ.
Tông này được gọi là “Viên giáo”, nghĩa là giáo lý viên dung hoàn toàn đầy đủ.
Tông này chủ trương “Pháp giới duyên khởi”, nghĩa là vũ trụ vạn hữu trùng trùng do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nói một cách khác, mọi sự vật trong vũ trụ bao la, từ một vật nhỏ như hạt bụi, cho đến một vật lớn như trăng sao, đều nương vào nhau, làm nhân làm quả, lớp lớp không cùng tột, dung thông nhau, đối chọi nhau, ảnh hưởng lẫn nhau mà có. Mỗi pháp, trong vũ trụ không thể tồn tại riêng rẽ, biệt lập mà tự có được. Cái này có là nhờ cái kia, cái kia có là nhờ cái này. Cái này và cái kia tương quan, tương duyên, lớp lớp không cùng tột, cho nên gọi là “vô tận duyên khởi” hay “trùng trùng duyên khởi”.
Vì là trùng trùng duyên nhau, nên một là hết thảy, hết thảy là một, mọi sự vật trong vũ trụ đều dung thông nhau. Và do đó, trong kinh Hoa Nghiêm đã nêu lên pháp môn “Sự sự vô ngại pháp giới”.
Để hiểu rõ nghĩa lý của pháp môn này, chúng ta hãy đi theo pháp quy nạp gồm có 4 giai đoạn sau đây, cũng gọi là bốn pháp giới:
Trên đây là những thí dụ vô cùng thô thiển, cốt để gợi lên một ý niệm về “Sự Sự vô ngại pháp giới” thôi, chứ không đúng hẳn. Trong hai thí dụ trên, chúng ta lấy những vật dụng điện khí hay những hồ nước để hình dung cho Sự Sự trong pháp giới; và lấy những luồng điện hay luồng nước để hình dung cho Lý của pháp giới. Thí dụ như thế, người ta sẽ tưởng rằng Sự và Lý là hai loại khác nhau, có thể phân tích ra được. Nhưng thật ra Lý và Sự không thể phân tích ra được: trong Sự có Lý, trong Lý có Sự. Sự, Lý chẳng qua là hai phương diện của một vấn đề vô cùng tế nhị, mà lý trí của chúng ta đã phân tích ra để tạm nghiên cứu đó thôi.
Để tóm tắt ý nghĩa của bốn pháp giới này, chúng tôi xin nói một cách giản dị như sau:
Pháp giới gồm có triệu triệu sự vật khác nhau, như A, B, C, v.v… (Sự pháp giới).
Trong mỗi sự vật đều có lý tính bình đẳng, mà chúng tôi hình dung là L (Lý pháp giới).
Lý tính bình đẳng ấy dung thông với tất cả mọi sự vật, như A=L; B=L; C=L. (Lý, Sự vô ngại pháp giới).
Nhờ lý tính dung thông với mọi sự vật, mà mọi sự vật trong vũ trụ trở thành dung thông nhau, vô ngại đối với nhau, như A=C, v.v… (Sự Sự vô ngại pháp giới).
Trong pháp giới, sở dĩ Sự Sự được vô ngại, dung thông là do các pháp đều có đủ “sáu tướng” và “mười lý huyền diệu” sau đây:
SÁU TƯỚNG VIÊN DUNG
Dựa theo bộ kinh Hoa Nghiêm, Ngài Bồ tát Thế Thân đã làm ra bộ “Thập địa luận” để giải thích nghĩa lý của sáu tướng (lục tướng). Sáu tướng này được gọi là Viên-dung, vì nó có những đức tính viên mãn, dung thông vô ngại. Sáu tướng của sự vật trong vũ trụ ấy là:
Như 100 đồng bạc là tổng tướng. Tổng tướng này là tổng cộng của các tờ giấy bạc: 1 tờ 50 đồng, 2 tờ 20 đồng, 1 tờ 10 đồng (50+40+10=100). Những tờ giấy bạc 50, 20, 10 đồng là biệt tướng. Những tờ giấy bạc này to nhỏ, hình ảnh, màu sắc khác nhau, là dị tướng. Mặc dù hình tướng khác nhau, nhưng cũng là những tờ bạc cả, tính chất “bạc” là đồng tướng.
Sáu tướng này phân ra làm ba đối, gọi là “Tam đối lục tướng”.
– Tổng, Biệt cùng đối nhau thuộc về Thể.
– Đồng, Dị cùng đối nhau thuộc về Tướng.
– Thành, Hoại cùng đối nhau thuộc về Dụng.
Nếu chúng ta lấy con sư tử bằng vàng làm thí dụ, thì toàn thể thân hình của nó là Tổng tướng; mỗi bộ phận riêng rẽ như tai, mắt, mũi lưỡi là Biệt tướng; chất vàng của nó là Đồng tướng; mỗi bộ phận có hình dáng riêng khác là Dị tướng; mỗi bộ phận cộng tác hòa hiệp với nhau để thành hình con sư tử là Thành tướng; nhưng mỗi bộ phận đều có phạm vi riêng biệt, tự lập của nó là Hoại tướng.
Khi chúng ta nói đến Tổng, Đồng, Thành là nói về phương diện toàn thể, viên dung bình đẳng của bản thể vũ trụ; khi chúng ta nói đến Biệt, Dị, Hoại là nói về phương diện hiện tượng giới, trong ấy mỗi mỗi sự vật đều phơi bày riêng rẽ khác nhau. Theo trong kinh Hoa Nghiêm thì Tổng, Đồng, Thành tướng thuộc về môn viên dung; còn Biệt, Dị, Hoại tướng thuộc về môn hàng bố (nghĩa là hiển lộ, phơi bày la liệt). Một bên là bình đẳng, một bên là sai biệt. Nhưng bình đẳng và sai biệt tương tức, tương nhập, viên dung không ngại. Tương tức nghĩa là cái này tức cái kia, như nước tức là sóng; tương nhập nghĩa là ăn nhập với nhau, dung thông nhau, như mặt gương này và mặt gương kia phản chiếu vào nhau không cùng mà không cản trở gì nhau. Vì tương tức, tương nhập, nên lìa tổng tướng thời không biệt tướng, lìa đồng tướng thời không dị tướng, lìa thành tướng thời không hoại tướng. Tóm lại, viên dung không lìa hàng bố, hàng bố không lìa viên dung, viên dung tức hàng bố hàng bố tức là viên dung. Hết thảy các pháp đều đủ sáu tướng ấy, không một pháp nào là không viên dung tự tại, tức, nhập không ngại. Vì thế cho nên gọi là 6 tướng viên dung. Đấy là ý nghĩa huyền diệu của Hoa Nghiêm nhất thừa viên giáo.
Ngoài sáu tướng nói trên, các pháp còn có mười lý huyền diệu, hay mười đức tính huyền diệu, mà bộ kinh Hoa Nghiêm sớ sao và bộ Tham Huyền Ký của ngài Hiền Thủ có giải thích như sau:
Tóm lại, mười lý huyền diệu này cộng với sáu tướng nói trên của các pháp là nguyên nhân giải thích vì sao “Sự Sự được vô ngại” trong pháp giới, và cắt nghĩa một cach đầy đủ giáo lý “trùng trùng duyên khởi” mà Hoa Nghiêm tông chủ trương.
Giáo lý căn bản của Hoa Nghiêm tông đã sâu xa mầu nhiệm, thì phương pháp tu hành tất nhiên cũng phải cao siêu, mầu nhiệm mới đưa hành giả đến chỗ cứu cánh tu hành. Tựu trung, trong các phương pháp tu hành ấy, ba pháp quán về pháp giới sau đây được xem là các pháp môn trọng yếu và có hiệu quả rốt ráo nhất:
Pháp quán này dựa trên”lý pháp giới” mà lập ra. Mục đích của pháp quán này là dứt vọng tình, rõ chân tính, khiến cho hành giả thấy sắc mà không bị sắc ngăn ngại và nhận được rằng toàn thể là chân không; thấy không, mà nhận được rằng đó không phải là không hẳn (đoạn không) mà toàn là chân tính. Tóm lại, pháp quán này nhìn thấu qua được sự đối đãi giả dối của cái không và cái có, để nhận rõ được cái “lý của vũ trụ (lý pháp giới) là chân không” (đã giải ở trên)
Theo pháp quán này, hành giả quán sát cái sắc tướng của một mảy trần mà khám phá ra được cái lý của vũ trụ. Tức là qua cái tướng hư giả của sự vật mà thấy được cái tính sáng suốt của nhứt chân.
Theo pháp quán này, hành giả quán sát cái Lý nơi một Sự, rồi do một Sự ấy mà mỗi mỗi Sự khác cũng đều thấy rõ. Hành giả lại quán mọi Sự tức nơi Lý, rồi theo Lý ấy mà mỗi mỗi Sự đều dung thông.
Theo Hoa Nghiêm tông, giải thoát vẫn không phá hoại thế gian tướng; nói một cách khác, không phải phủ nhận thế gian tướng mà có thể tìm thấy giải thoát ở một nơi nào khác. Ngay trong thế gian này, nếu hành giả phân biệt được chân vọng, khử trừ điên đảo, khiến cho tâm thanh tịnh để cùng thật tại nhất trí: đó là giải thoát.
Quan niệm về giải thoát của Hoa Nghiêm tông này không khác với Thiên Thai tông, nghĩa là đều chủ trương một cách lạc quan rằng chúng sinh và Phật không sai cách: không nhận chân được lý trùng trùng duyên khởi, sự sự vô ngại pháp giới, là chúng sinh; giác ngộ được chân lý trên là Phật.
Hoa Nghiêm tông vì y theo bộ kinh cao nhất của Phật mà thành lập, nên được liệt vào hạng viên giáo, nghĩa là giáo lý hoàn toàn viên mãn. Và cũng vì là viên giáo cho nên phải cần một căn trí thông lợi mới tu theo được.
Vậy hành giả, trước khi muốn lựa con đường này để tiến bước, cần phải cân nhắc cho kỹ lưỡng, nhất là cần phải tìm nghiên cứu thêm cho thấu đáo. Nếu thấy nó khó hiểu, quá cao đối với căn cơ của mình, thì tốt hơn, nên tìm một con đường khác, bởi vì con đường nào, cuối cùng cũng đưa đến giải thoát cả.
Nhưng nếu quý vị nào nhận thấy căn cơ của mình có thể theo kịp được giáo lý huyền diệu của tông này, thì đó cũng là một diễm phúc lớn. Trí tuệ quý vị sẽ nếm được hương vị thanh cao nhất của đạo nhiệm mầu, và sự tu hành của quý vị cũng mau đến đích, vì quý vị đã trèo theo con đường thẳng đứng để lên đỉnh núi “giải thoát”. Bao giờ con đường thẳng đứng cũng khó trèo, nhưng mau đến đích hơn những con đường vòng quanh co. Trong vấn đề tu hành cũng vậy.
Nguồn: Trích từ sách Phật Học Phổ Thông (HT. Thích Thiện Hoa)