KINH DUY-MA-CẬT
Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng
II. PHẨM PHƯƠNG TIỆN (1)
Thuở ấy, trong thành lớn Tỳ Da Ly có ông Trưởng giả tên là DUY MA CẬT, đã từng cúng dường vô lượng các Đức Phật, sâu trồng cội lành, đặng vô sanh pháp nhẫn, biện tài vô ngại , du hí thần thông (2) chứng các môn tổng trì (3) , đặng sức vô úy, hàng phục ma oán, thấu rõ Pháp môn (4) thâm diệu, khéo nơi trí độ, thông đạt các Pháp phưong tiện, thành tựu đại nguyện, biết rõ tâm chúng sanh đến đâu, hay phân biệt rành rẽ các căn lợi độn, ở lâu trong Phật đạo, lòng đã thuần thục, quyết định nơi Đại thừa. Những hành vi đều khéo suy lường, giữ gìn đúng oai nghi của Phật, lòng rộng như bể cả, chư Phật đều khen ngợi, hàng Đệ tử, Đế Thích, Phạm Vương, vua ở thế gian v.v... thảy đều kính trọng.
Vì muốn độ người, nên ông dùng phương tiện khéo thị hiện là thân Trưởng giả ở thành Tỳ Da Ly, có của cải nhiều vô luợng để nhiếp độ các hạng dân nghèo ; giữ giới thanh tịnh để nhiếp độ các kẻ phá giới ; dùng hạnh điều hòa nhẫn nhục để nhiếp độ các người giận dữ ; dùng đại tinh tiến để nhiếp độ các kẻ biếng nhác ; dùng nhất tâm thiền tịch để nhiếp độ kẻ tâm ý tán loạn ; dùng trí tuệ quyết định để nhiếp độ những kẻ vô trí ; tuy làm người bạch y (5) cư sĩ mà giữ gìn giới hạnh thanh tịnh của sa môn; tuy ở tại gia mà không đắm nhiểm ba cõi (6), thị hiện có vợ con, nhưng thường tu phạm hạnh; hiện có quyến thuộc , nhưng ưa sự xa lìa ; dù mặc đồ quí báu, mà dùng tướng tốt để nghiêm thân ; dù có uống ăn mà dùng thiền duyệt (7) làm mùi vị. Nếu khi đến chỗ cờ bạc, hát xướng thì ông lợi dụng cơ hội để độ người ; dù thọ các Pháp ngoại đạo nhưng chẳng tổn hại lòng chánh tín ; tuy hiểu rõ sách thế tục mà thường ưa Phật Pháp ; cung kính tất cả mọi người làm trên hết trong sự cúng duờng ; nắm giữ chánh Pháp để nhiếp độ kẻ lớn người nhỏ ; tất cả những việc trị sanh (buôn bán làm ăn) hùn hiệp, dù được lời lãi của đời, nhưng chẳng lấy đó làm vui mừng. Dạo chơi nơi ngã tư đường cái để lợi ích chung sanh ; vào việc trị chánh để cứu giúp tất cả ; đến chỗ giảng luận dẫn dạy cho Pháp Đại thừa ; vào nơi học đường dạy dỗ cho kẻ đồng mông ; vào chỗ dâm dục để chỉ bày sự hại của dâm dục ; vào quán rượu mà hay lập chí. Nếu ở trong hàng Trưởng giả, là bực tôn quý trong hàng Trưởng giả, giảng nói các Pháp thù thắng ; nếu ở trong hàng cư sĩ, là bực tôn quí trong hàng cư sĩ, dứt trừ lòng tham đắm cho họ ; nếu ở trong dòng Sát đế lợi (8), là bậc tôn quý trong dòng Sát đế lợi, dạy bảo cho sự nhẫn nhục ; nếu ở trong dòng Bà la môn (9), là bực tôn quí trong dòng Bà la môn, khéo trừ lòng ngã mạn của họ ; nếu ở nơi Đại thần, là bực tôn quí trong hàng Đại thần, dùng chánh pháp để dạy dỗ ; nếu ở trong hàng Vương tử, là bực tôn quí trong hàng Vương tử, chỉ dạy cho lòng trung hiếu ; nếu ở nơi nội quan (10) , là bậc tôn quý trong hàng nội quan, khéo dạy dỗ các hàng cung nữ ; nếu ở nơi thứ dân, là bực tôn quí trong hàng thứ dân, chỉ bảo làm việc phước đức ; nếu ở nơi trời Phạm thiên (11), là bực tôn quí trong Phạm thiên, dạy bảo cho trí tuệ thù thắng; nếu ở nơi trời Đế Thích (12), là bực tôn quí trong Đế thích, chỉ bày cho Pháp vô thường ; nếu ở nơi trời Tứ thiên vương hộ thế (13), là bực tôn quí trong Tứ thiên vương hộ thế, hằng ủng hộ chúng sanh. Trưởng giả Duy Ma Cật dùng cả thảy vô lượng phương tiện như thế làm cho chúng sanh đều được lợi ích.
Ông dùng phương tiện hiện thân có bịnh. Do ông có bịnh nên các vi Quốc Vương, Đại thần, Cư sĩ, Bà la môn cả thảy cùng các vị Vương tử với bao nhiêu quan thuộc vô số nghìn người đều đến thăm bịnh. Vì những người đến thăm bịnh, ông nhơn dịp thân bịnh mới rộng nói Pháp : “Nầy các Nhân giả ! Cái huyễn thân này thật là vô thường, nó không có sức, không mạnh không bền chắc, là vật mau hư hoại, thật không thể tin cậy. Nó là cái ổ chứa nhóm những thứ khổ não bịnh hoạn. Các Nhân giả ! Người có trí sáng suốt không bao giờ nương cậy nó. Nếu xét cho kỹ, thì cái thân này như đống bọt không thể cấm nắm, thân này như bóng nổi không thể còn lâu ; thân này như ánh náng dợn giữa đồng, do lòng khát ái sanh, thân này như cây chuối không bền chắc ; thân này như đồ huyễn thuật, do nơi điên đảo mà ra ; thân này như cảnh chiêm bao, do hư vọng mà thấy có ; thân này như bóng của hình, do nghiệp duyên hiện ; thân này như vang của tiếng, do nhân duyên thành ; thân này như mây nổi, trong giây phút tiêu tan ; thân này như điện chớp sanh diệt rất mau lẹ, niệm niệm không dừng ; thân này không chủ, như là đất ; thân này không có ta, như là lửa ; thân này không trường thọ, như là gió ; thân này không có nhân, như là nước ; thân này không thật, bởi tứ đại giả hợp mà thành ; thân này vốn không, nếu lìa ngã và ngã sở ; thân này là vô tri, như cây cỏ, ngói, đá ; thân này không có làm ra (vô tác) (14), do gió nghiệp chuyển lay ; thân này là bất tịnh, chứa đầy những thứ dơ bẩn ; thân này là giả dối, dầu có tắm rửa ăn mặc tử tế rốt cuộc nó cũng tan rã ; thân này là tai họa, vì đủ các thứ bịnh hoạn khổ não ; thân này như giếng khô trên gò, vì nó bị sự già yếu ép ngặt ; thân này không chắc chắn, vì thế nào nó cũng phải chết ; thân này như rắn độc, như kẻ cướp giặc, như chốn không tụ (15) vì do ấm (16), giới (17), nhập (18) hợp thành.
Các Nhân giả! Hãy nên nhàm chán cái thân này, chớ tham tiếc nó. Phải nên ưa muốn thân Phật. Vì sao ? - Vì thân Phật là Pháp thân (19), do vô lượng công đức trí tuệ sanh ; do giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến (20) sanh ; do từ bi hỉ xả (21) sanh ; do Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Nhu hòa, Cần hành, Tinh tấn, Thiền định, Giải thoát tam muội (22), Đa văn, Trí tuệ các Pháp Ba la mật (23) sanh ; do Phương tiện sanh ; do Lục thông (24), Tam minh (25) sanh ; do 37 phẩm trợ đạo (26) sanh, do Chỉ quán (27) sanh ; do Thập lực, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng (28) sanh ; do đoạn tất cả pháp bất thiện, tu các pháp thiện sanh ; do chơn thật sanh; do không buông lung sanh; vô lượng pháp thanh tịnh như thế sanh ra thân Như Lai.
Này các Nhân giả ! Muốn được thân Phật, đoạn tất cả bịnh chúng sanh thì phải phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (29).
Như vậy, Trưởng giả Duy Ma Cật vì những người đến thăm bịnh, mà nói Pháp làm cho vô số nghìn người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Chú thích của phẩm II
1. Phương tiện: Phương là phưong pháp, tiện là tiện dụng ; phương pháp đem ra dùng thích hợp căn cơ của mỗi chúng sanh, mỗi thời đại,. mỗi quốc độ nên gọi là phương tiện.
2. Du hí thần thông: Phật và Bồ Tát có thần thông tự tại vô ngại, vận dụng hóa độ chúng sanh, làm sự vui chơi của mình, nên gọi là du hý. Lại có nghĩa: Bồ Tát đã lịch thiệp các pháp thần thông, do từ chứng ngộ chơn tánh mà hiển phát, vận dụng xuất nhập dễ dàng như chơi, không điều chi ngăn ngại, chẳng phải như thần thông của nhà ngoại đạo, nhị thừa do tu luyện mà có, còn bị ngại, nên gọi là du hí thần thông.
3. Tổng trì: Tiếng Phạn gọi là Đà la ni, Tàu dịch là Tổng trì, tức là chỉ cho công năng giữ gìn các pháp lành khiến cho không mất, các pháp dữ không sanh, chia làm bốn món :
1) Pháp Đà la ni : với các Pháp Phật dạy nghe giữ gìn không quên.
2) Nghĩa Đà la ni : với nghĩa các pháp giữ gìn không quên.
3) Chú Đà la ni : do sức thiền định phát ra lời bí mật có thần hiệu không lường.
4) Nhẫn Đà la ni : an trú nơi thật tướng của các pháp.
Trong luận Phật Địa, quyển thứ 5 có nói : Đà La ni là sức tăng thượng của niệm tuệ hay giữ gìn vô lưọng Phật pháp.
4. Pháp môn: Giáo pháp của Phật nói ra là phép tắc khuôn mẫu cho thế gian. Các bậc Hiền, Thánh nương vào đó mà được nhập đạo, gọi là Pháp môn. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện nói “... dùng chữ pháp môn tỏ bày Phật đạo”.
5. Bạch y: Danh từ xưng gọi người thế tục, vì người thế tục ưa thích mặc y phục trắng nên gọi là “bạch y”.
6. Ba cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới.
7. Thiền duyệt: Sự vui thích trong cảnh thiền định. Khi nhập vào cảnh thiền định được nhàn tịnh, thư thới làm cho vui thích tâm thần.
8. Sát Đế Lợi: (Ksatriya) tàu dịch là Điền chủ, giòng vua ở xứ Ấn Độ. Một họ trong bốn họ : 1) Sát đế lợi, 2) Bà la môn, 3)Tỳ xá, 4)Thủ đà.
9. Bà la môn: (Brahmana) Tàu dịch là Tịnh hạnh, một giòng họ tu hạnh trong sạch, thờ trời Đại phạm thiên, ở xứ Ấn Độ.
10. Nội quan: Quan Bộ lại trong cung cấm nhà vua.
11. Phạm thiên: hoặc Đại phạm thiên vương là vua cõi trời sơ thiền nơi Sắc giới. Cõi sơ thiền có 3 từng trời : 1) phạm chúng, 2) Phạm phụ, 3) Đại phạm, đã xa lìa sự dục nhiễm ở cõi Dục giới, thân tâm yên tịnh trong sạch nên gọi là Phạm thiên.
12. Đế Thích: Là vị trời chủ tể cõi Đạo Lợi Thiên trên chót núi Tu Di. Từng trời này có 33 cõi mà vị Đế Thích ở cõi chính giữa thống lãnh 32 cõi kia.
13. Tứ Thiên Vương hộ thế: Bốn vị ở bốn phía ngang lưng chừng núi Tu Di, làm vị ngoại tướng giúp đỡ trời Đế Thích coi sóc dân gian, mỗi vị ủng hộ mỗi châu thiên hạ nên gọi là Tứ Thiên Vưong hộ thế :
1) Trì quốc thiên vương ở phương đông ;
2) Tăng trưởng thiên vương ở phương nam ;
3) Quảng mục thiên vương ở phương tây ;
4) Đa văn thiên vương ở phương bắc.
14. Vô tác: Không có thi vi tạo tác, là ý nói cái thân do nhân duyên hiệp thành, không có chủ tể nên nó không tự động tác chuyển vận được.
15. Như chốn không tụ: Như chỗ tụ lạc (xóm làng) trống không, vắng vẻ có bọn giặc cướp nưong ở, hoặc chỗ đồng trống có ác quỉ nhóm họp, là chỗ đáng ghê sợ, đáng nhàm chán không thể nương ở được. Thân con người cũng như thế, do tứ đại họp thành là đống không trơn, lại là ổ chứa nhóm tội lỗi, chiu mọi sự thống khổ bịnh hoạn già chết ép ngặt, nên đáng nhàm chán xa lìa cũng như chốn không tụ kia.
16. Ấm : Năm ấm : sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
17. Giới : 18 giới : 6 căn : nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý ; 6 trần : sắc, thinh, huơng vị, xúc, pháp ; 6 thức : nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
18. Nhập : 12 nhập : sáu trần : sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp xung nhập với 6 căn : nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý.
19. Pháp thân : Là pháp giới tánh hay là chơn như. Thân có nghĩa là nhóm họp, nên Pháp thân là chỗ sở y chứa nhóm tất cả công đức Pháp tánh. Lại đức Phật lấy pháp tánh chơn như làm thân, nên gọi là pháp thân.
20. Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến : Năm món này gọi là ngũ phần Pháp thân :
1) Thân, khẩu, ý xa lìa tất cả tội lỗi gọi là giới.
2) Chơn tâm đứng lặng lìa tất cả vọng niệm gọi là Định.
3) Chơn trí sáng suốt chiếu tỏ các pháp gọi là Tuệ.
4) Thân tâm giải thoát không bị triền phược gọi là giải thoát.
5) Biết mình thật giải thoát gọi là giải thoát tri kiến.
Người tu hành nhờ giới, định, tuệ làm nhơn mà chứng được thể giải thoát, giải thoát tri kiến của Pháp thân là quả, nên gọi là ngũ phần pháp thân.
21. Từ, bi, hỉ, xả : Xem số 5 về phần chú thích ở phẩm trước .
22. Tam muội : Tàu dịch là Định Tâm, định trụ một cảnh, xa lìa những sự loạn động.
23. Ba la mật (Paramita) : Tàu dịch có ba nghĩa 1) Cứu cánh, 2) Đáo bỉ ngạn, 3) Độ vô cực. Danh từ Ba la mật này là do đại hạnh của các vị Bồ Tát mà đặt tên. Chính mình thật thành đại hạnh và giáo hóa cho người đến chỗ rốt ráo nên gọi “sự cứu cánh”. Nương theo dại hạnh của Bồ Tát được từ bờ sanh tử bên này tới bờ Niết bàn bên kia, nên gọi “đáo bỉ ngạn”. Nhờ đại hạnh mà được các pháp rộng rãi sâu xa không bờ bến, nên gọi “Độ vô cực”.
24. Lục thông : Sáu món thần thông :
1) Thiên nhãn thông : con mắt thấy xa đến cả đại thiên thế giới, những vật nhỏ nhít như vi trùng, những vật có chất ngại, cản trở đều thấy được hết, thấy rõ các chúng sanh trong nhiều kiếp lâu xa, chết ở cõi nào, sanh về cõi nào đều thấy rõ rệt.
2) Thiên nhĩ thông : lỗ tai nghe xa đến cả thế giới, nhẫn đến tiếng rung động hết sức nhỏ, những tiếng nói của các loại đều nghe được hết.
3) Tha tâm thông : hiểu biết được tâm nỉệm tư tưởng của tất cả chúng sanh.
4) Túc mạng thông : biết rõ những kiếp trước của mình và của chúng sanh không điều gì ngăn ngại.
5) Thần túc thông : được các pháp thần thông biến hóa tự tại.
6) Lậu tận thông : trừ sạch hết thảy phiền não.
25. Tam minh :
l) Túc mạng minh : biết được những việc sống chết đời trước của mình và của tất cả chúng sanh .
2) Thiên nhãn minh : biết được những việc sống chết đời sau của mình và của tất cả chúng sanh.
3) Lậu tận minh : biết được những sự khổ hiện tại, dùng trí tuệ trừ sạch hết các phiền não.
26. Ba mươl bảy phẩm trợ đạo : 4 pháp niệm xứ ; 4 pháp chánh cần ; 4 pháp như ý túc ; 5 căn ; 5) lực ; 7 pháp giác chi ; 8 pháp đạo phần. 37 pháp này giúp cho người tu hành thành tựu đưọc đạo quả nên gọi là trợ dạo.
4 pháp niệm xứ: niệm ]à tâm năng quán (tâm hay quán sát), xứ là cảnh sở quán (cảnh bị quán sát). Vì chúng sanh vọng chấp thân ngũ ấm này, nên Phật nói 4 phép quán để đối trị :
1) Quán thân bất tịnh : Quán sát thân này là vật nhơ bẫn.
2) Quán thọ là khổ: Quán sát sự thọ lãnh của thân tâm là khổ.
3) Quán tâm vô thuờng : Quán sát tâm thức luôn luôn sanh diệt không thường trụ .
4) Quán sát vô ngã: Quán sát các pháp không có chủ tể.
4 pháp chánh cần:
1) Đoạn những ác pháp đã sanh ;
2) Đoạn những ác pháp chưa sanh ;
3) Làm cho các pháp lành tăng trưởng ;
4) Làm cho các pháp lành chưa sanh được sanh.
4 pháp như ý túc :
1) Dục như ý túc : có tâm ham muốn tu tập các pháp lành thì được như ý.
2) Niệm như ý túc : quán sát cảnh gì mà nhứt tâm chuyên chú vào đó thì được như ý.
3) Tinh tấn như y túc : do tinh tấn mà tu tập các pháp lành được như ý.
4) Tư duy như ý túc : do suy nghĩ mà tu tập được kết quả.
5 căn :
1) Tín căn : tin theo chánh đạo và trợ đạo.
2) Tinh tấn căn : là sự dõng mãnh tu theo thiện pháp ;
3) Niệm căn : ghi nhớ các pháp chánh đạo và trợ đạo ;
4) Định căn : nhiếp tâm theo chánh đạo ;
5) Huệ căn : nhờ có dịnh mà chân tánh tự sáng suốt không phải ở ngoài vào.
5 lực: cũng như ngũ căn nhưng vì thật hành theo ngũ căn thì căn lành có sanh, song gốc ác chưa phá hết nên phải gia công tu tập thêm khiến cho thiện căn tăng trưởng. Khi thiện căn thành thục, các ác pháp khỏng còn, nên gọi là ngũ lực.
7 pháp giác chi: Giác là tỏ, nghĩa là tỏ biết pháp tu chơn hay ngụy. Chi là ngành, nghĩa là 7 pháp này có chi phái khác nhau không xen lẫn nhau nên gọi là 7 pháp giác chi hay là 7 pháp giác phần :
l) Trạch pháp giác chi : dùng trí tuệ quan sát các pháp, giản trạch rõ ràng chơn ngụy.
2) Tinh tấn giác chi : dõng mãnh chuyên tâm tu tập các pháp chơn chánh. (Không làm theo những khổ hạnh sai lầm của ngoại đạo) luôn luôn không gián đoạn.
3) Hỉ giác chi : Khởi tâm vui mừng khi ngộ được chơn pháp. Mừng này chẳng phải như những lối mừng theo các việc thường tình điên đảo hư vọng, mà là mừng được an trụ nơi pháp chơn chánh.
4) Trừ giác chi : đoạn trừ phiền não thô trọng làm cho thân tâm nhẹ nhàng thư thới, xa lìa các pháp hư giả, tăng trưởng công đức chơn thiện.
5) Xả giác chi : lìa bỏ tất cả pháp chơn, vọng, lòng rổng rang bình đẳng không tưởng dến.
6) Định giác chi : nhứt tâm an trụ một cảnh, xa lìa vọng tưởng tán loạn. 7) Niệm giác chi : thường ghi nhớ pháp tu rõ ràng khiến cho định, tuệ bình đẳng.
Lúc tâm hôn trầm nhớ ngay đến ba chi giác : trạch pháp, tinh tấn, hỉ giác mà quán sát các pháp cho khỏi hôn trầm. Lúc tâm loạn vu vơ, nghĩ ngay đến ba chi : “Trừ giác” để trừ sạch các lỗii vê thân miệng ; “Xả giác” để xả tiêu cái trí quán sát ; “Định giác” để vào nơi chánh định thu nhiếp cái tâm tán loạn, cho khòi xao động vu vơ.
8 pháp đạo phần:
1) Chánh kiến : sự hiểu biết chơn chánh.
2) Chánh tu duy : sự suy nghĩ chơn chánh.
3) Chánh ngữ : nói những lời chơn chánh không hư vọng.
4) Chánh nghiệp : hành động chơn chánh.
5) Chánh mạng : lấy sự khất thực để nuôi sống thân mạng.
6) Chánh tinh tấn : tu theo giới, định. tuệ một lòng tinh chuyên không gián đoạn.
7) Chánh niệm: ghi nhớ nhữmg pháp chơn chánh.
8) Chánh định: thu nhiếp thân tâm thường được tịch tịnh.
27. Chỉ quán: Tiếng Phạn là Xa ma tha Tỳ bác xá na, Tàu dịch là chỉ quán hay là định tuệ, tịch chiếu, minh tịnh. Chỉ : là ngăn dửt tư tuởng vọng niệm, đoạn trừ giác quán sai lầm, đối với đế lý không lay động. Quán : là trí quán sát phân biệt, hiểu rõ danh tướng các pháp nhơn duyên sanh diệt, khế hội vào lý chơn như.
28. Thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng : đã giải nơi phẩm trước.
29. Vô thượng chánh đẳng chánh giác : chỗ giác ngộ của Phật không còn ai hơn nữa gọi là Vô thượng, xa lìa tà vọng gọi là Chánh, ngộ được chơn lý nên gọi là Giác. Phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác là phát tâm mong cầu trí giác vô thượng, quả Phật cứu cánh.