Biên soạn: Thiện Chơn (cư sĩ người Trung Hoa)
Đánh chánh: Thái Hư Đại Sư
Dịch giả: Thích Hành Trụ
TỰA DẪN
Cho nên trước đây 25 thế kỷ, Đức Bổn Sư Thích Ca ra đời ở Trung Ấn Độ; lúc bấy giờ xã hội Ấn Độ chia ra từng giai cấp. Giữa sự chênh lệch của giai cấp này với giai cấp nọ và những sự bất công giữa người và người, người và vật tất cả đều được Đức Phật trình bày một cách tỉ mỉ và rõ ràng, bởi Ngài nhận thấy hết thảy mọi loài đều có một sự sống như nhau.
Do đó, hơn bốn mươi chín năm Ngài đi thuyết pháp giáo hóa khắp cùng năm xứ Ấn Độ và Ngài thuyết minh chủ nghĩa Từ Bi Bình Đẳng; nên giáo lý của Ngài lập ra phải chia làm năm bậc (Ngũ thừa), bởi trình độ văn hóa của con người có sự sai khác nhau.
Đức Phật tùy cơ giáo hóa để đem con người từ thấp lên cao, hoán cải đời sống con người xấu xa trở nên tốt đẹp, Ngài không bỏ sót một người nào nếu người ấy biết nhận rõ chơn giá trị của mình.
Thể theo mục đích trên, nên chúng tôi cho ra quyển sách nhỏ này nhan đề là: “SƠ ĐẲNG PHẬT HỌC GIÁO KHOA THƯ”, với bổn ý của soạn giả : Làm sao cho người mới vào đạo có quyển sách giản dị và dễ hiểu; từ đấy, lần tiến lên tầng giáo lý cao siêu huyền diệu hơn.
Người xưa đã nói : “Muốn đi con đường xa nghìn dặm, cần phải có bước đầu ra cửa. Lên cây thang cao mười nấc, lẽ phải bước nấc dưới hết làm đầu”.
Cũng thế ấy, nên quý vị sơ cơ muốn tìm hiểu giáo lý cao sâu Phật-đà, cần phải đón đọc những quyển sách dễ dàng như quyển sách này trước hết.
Quyển sách này theo lối trình bày có chia ra từng bài một và câu văn rất tóm tắt dễ đọc và dễ nhớ.
- Quý vị cố gắng đọc cho hết quyển sách này rồi mới thấy chỗ hay.
- Đọc quyển này lúc ta còn tại gia thì là một Phật tử có trình độ hiểu đạo. Mà lúc sau này có nhân duyên được đi xuất gia cũng có thể gọi là bước lên được một bước, khỏi phải hổ thẹn với trang xuất gia đầu tròn.
Dịch giả
PHẦN I
BÀI THỨ 1
PHẬT
PHẬT, tiếng gọi tắt của hai chữ “Phật đà” tức là đức hiệu của bậc đã Giác ngộ nơi tự tâm và cứu độ mọi loài đạt đến quả vị viên mãn. Cùng một cách như dân tộc Trung Hoa tôn xưng đức Khổng Tử là một bậc Thánh nhơn, có lịch sử, có sự thật. Song trí tuệ và năng lực của Phật thì lớn hơn, cho nên chúng ta tôn xưng là Phật.
Trí tuệ của Phật, mục đích phá trừ bao nhiêu phiền não : tham, sân, si và mạn v.v… Năng lực của Phật quyết làm cho tất cả mọi loài, xa lìa tất cả khổ, hoàn toàn an hưởng những sự vui. Vì lẽ ấy, chúng ta cần phải lập chí học Phật.
BÀI THỨ 2
PHÁP
PHÁP, tức là phép tắc. Tất cả muôn sự muôn vật trong thế gian này, vật nào cũng đều có lý nhứt định và đều có khuôn mẫu của nó. Loài người cũng thế, nhưng khuôn phép của loài người càng chu đáo hơn. Cho nên các bậc Thánh nhơn trong mỗi nước. Vị Thánh nhơn nào cũng đều có những phương pháp làm cho con người đi vào con đường chơn chánh như : lễ giáo, pháp luật và quy ước v.v…
Còn phương pháp của Đức Thế Tôn chúng ta dạy không những thế thôi, đối với phương pháp dạy người đời, chỗ đại khái cũng rất giống nhau. Nhưng chỗ cốt yếu hơn hết là dạy chúng ta mỗi người cần phải giữ gìn năm giới cấm và thực hành theo pháp “Bát Chánh đạo”, để cho khỏi mất tư cách làm người. Vì lẽ ấy, chúng ta cần phải học Phật pháp.
BÀI THỨ 3
TĂNG
TĂNG, là tiếng gọi tắt của hai chữ “Tăng-già” có nghĩa là “Hòa hợp chúng”, ý nghĩa là một nhóm người có tánh cách hòa hợp và cùng ở chung với nhau.
Hòa hợp có sáu nghĩa :
Đồng một giới luật để cùng nhau tu tập.
Sự thấy biết hòa thuận để giải thích cho nhau hiểu.
Thân thì hòa thuận để cùng ở chung với nhau.
Có lợi lộc nên cùng nhau hòa thuận để chia đồng đều.
Lời nói phải hòa thuận không nên cãi lẫy tranh hơn thua.
Tâm ý luôn hòa thuận, vui vẻ tán thành ý kiến hay và tùy hỷ học hạnh tốt…
Đủ sáu nghĩa trên mới gọi là “Tăng”. Chữ Tăng đây, chính là một danh từ chỉ chung cho một đoàn thể đệ tử của Phật vậy.
Một người, hai người, ba người đều không thể gọi là Tăng, từ bốn người sắp lên mới được gọi Tăng. Chữ Tăng đã là tiếng gọi chung cho một đoàn thể đệ tử của Phật, thì lẽ tất nhiên ta phải củng cố đoàn kết Tăng già hiệp lực hộ pháp, không phải là việc ngoài bổn phận vậy.
BÀI THỨ 4
THÍCH CA MÂU NI
Thích Ca là họ của Phật; Mâu Ni là tên của Phật. Hán dịch : “Năng nhơn Tịch mặc”.
Năng, tức là Năng lực; Nhơn tức là từ bi; Tịch, là không bị sự khổ vui làm bận lòng; Mặc, là không bị việc phiền não làm rối loạn. Tự độ và độ tha, công đức được viên mãn. Cho nên hiệu Ngài là Thích Ca Mâu Ni.
Ngày nay, chúng ta đã là đệ tử của Ngài thì lẽ dĩ nhiên phải học theo cái đức tánh “Năng nhơn Tịch mặc” của Ngài. Thế mới đáng gọi là một Phật tử chơn chánh.
BÀI THỨ 5
LA HÁN VÀ BỒ TÁT
La-hán có ba nghĩa :
1- Phá giặc tam độc (tham, sân và si)
2- Đáng thọ sự cúng dường của người và trời
3- Đời sau không còn sanh tử (luân hồi) nữa.
Bồ-tát nói đủ theo tiếng Ấn Độ là “Bồ-đề Tát-đỏa, Hán dịch : “Giác hữu tình”. Giác, tức là giác ngộ; Hữu tình là chúng sanh. Nghĩa là Bồ-tát đem Phật pháp dạy người và có năng lực khiến cho chúng sanh được tỏ ngộ và ra khỏi biển khổ.
BÀI THỨ 6
TU HÀNH
Tu hành: Sửa đổi hành vi, bỏ dữ làm lành, xa lìa thế tục, theo đạo. Và khi đi, đứng, ngồi, nằm phải có oai nghi; lúc nói năng cần phải ôn hòa nhã nhặn và khiêm nhường. Ý không tham sân và si. Thân không sát sanh, trộm cắp và dâm ô. Miệng không nói hai lời (lưỡi đôi chiều : tới đây nói kia, tới kia nói đây, tỷ như đòn xóc nhọn hai đầu). Không nói lời hung dữ (thế tục gọi là nói đùa, hỗn ẩu v.v…). Không nói dối trá. Không nói lời thêu dệt, chuyện ít xích cho nhiều, (như không đến số trăm người mà nói người ta đông như kiến cỏ). Không ăn những đồ rượu thịt v.v… Thế gọi là tu hành.
BÀI THỨ 7
LỄ TỤNG
Lễ, là lễ bái; Tụng là phúng tụng. Phúng tụng là để cho hột giống Bát-nhã huân sâu vào tạng thức. Lễ bái, thì ba nghiệp được thanh tịnh :
1- Để tâm ta vào với tâm Phật.
2- Cầu tâm Phật vào với tâm ta.
Cả hai nhiếp nhập lẫn nhau thì con đường cảm ứng được giao thông vậy.
BÀI THỨ 8
SÁM HỐI
Sám hối, theo tiếng Ấn Độ là “Sám-ma”. Tiếng Trung Hoa dịch : “Hối quá”. Nghĩa là chính mình tự biết những nghiệp ác đã lỡ gây ra từ trước, thật không đáng làm ! Mà sanh lòng biết hổ thẹn, cho nên ngày nay ta tắm gội thân tâm sạch sẽ, rồi đến trước Phật đài, đốt nén hương trầm, một lòng thành kính lễ bái, tỏ bày các tội lỗi, cầu xin sám hối. Và lập lời thệ nguyện như vầy: Từ nay về sau, con thà nuốt hoàn sắt nóng và cục lửa to, chớ quyết không còn phạm giới của Phật, mà làm các việc ác nữa!
BÀI THỨ 9
NAM MÔ, NHƯ LAI, HÒA NAM
Tiếng Phạm gọi là Nam mô cũng gọi là Nẵng mồ. Hán dịch: Quy y hay Quy mạng: là những lời rất thành kính, tâm hướng về với Đức Phật.
Như Lai: Là nương theo thật tánh Chơn như, mà được thành ngôi Chánh giác. Đây, cũng là một đức hiệu (trong 10 đức hiệu) của Phật vậy.
Hòa nam: Là tiếng Ấn Độ. Hán dịch là “Lễ bái” nghĩa là năm vóc (đầu, hai tay và hai chân) mọp sát, là ý nói lòng thành kính rất tột vậy.
BÀI THỨ 10
QUAN ÂM
Quan Âm là tên tắt, nói cho đủ là Quan Thế Âm. Nghĩa là vị Bồ-tát này luôn luôn xem xét tiếng tăm của người đời xưng niệm đến danh hiệu của Ngài, rồi Ngài liền đến độ cho chúng sanh ấy.
Nhưng, vì sao Ngài xem xét được tiếng tăm?
– Đáp: Bởi vị Bồ-tát này đã chứng được viên thông có thể sáu căn dung lẫn nhau. Nếu căn cứ theo mặt tự giác mà giải thích, thì vị Bồ-tát này, đem cái nghe tiếng tăm trong đời mà nghe trở lại tự tánh của mình, đến khi thuần thục mà được ngộ đạo vậy.
LỜI PHỤ. – Hỏi: Bồ-tát sẵn lòng từ bi, sao còn đợi chúng sanh xưng danh mới đến cứu ? – Đáp : Có cảm mới có ứng, không cảm làm sao ứng được.
BÀI THỨ 11
VI ĐÀ
Hộ Pháp Vi Đà vị thần Kim Cang, nơi tay cầm gậy Kim Cang dùng oai lực để hộ pháp.
Căn cứ theo bộ “Nam Sơn Cảm Thông Lục”: Ở cõi trời Tứ Thiên Vương có vị Thiên đại tướng quân, tên là Vi Côn, thường qua lại ba châu (Đông Thắng Thần châu, Nam Thiệm Bộ châu và Tây Ngưu Hóa châu) để ủng hộ Phật pháp. Vốn không có tượng của vị thần ấy nhưng người đời muốn kỷ niệm, mới tạo ra tượng của ngài Vi Đà Thiên để thay thế.
Còn bên Mật giáo thì căn cứ vào bộ Kinh “Kim Quang Minh” nên thờ tượng của một vị Đại tướng tên là Tán Chỉ.
BÀI THỨ 12
TÒNG LÂM, GIÀ LAM, AM VIỆN
Tòng lâm là gì? – Là chỗ của chúng Tăng tụ họp vậy.
Thuở Đức Phật còn tại thế, thường cùng các đệ tử nhóm ở nơi rừng Kỳ Đà, hoặc ở Trúc Lâm mà thuyết pháp, nên gọi những chỗ ấy là Già-lam. Già-lam là tiếng Ấn Độ, Hán dịch Tòng lâm. Chữ Am nghĩa là Yên: tức là chỗ Tăng chúng yên ở, cũng gọi là Thiền lâm hay Thiền viện, đều là những nơi thanh tịnh để cho chúng Tăng tu tập và thiền định vậy.
LỜI PHỤ:
– Tòng lâm: Tòng, là rừng cây che mát, nhiều vô số, cũng có nghĩa là có vô số chúng Tăng hòa hiệp ở chung một chỗ mà tu hành.
– Rừng Kỳ Đà: Là rừng cây của Thái tử Kỳ Đà với quan đại thần Cấp Cô Độc. Cùng nhau xây dựng tinh xá dâng cúng cho Đức Phật để thuyết pháp vậy.
BÀI THỨ 13
TỰ
Tự, là công sở để làm việc chánh trị ngày xưa, như ngày nay gọi là Quan thự (chỗ làm việc quan).
Đời Hán lập ra Hồng Lô Tự; để tiếp đãi khách khứa bốn phương. Đến niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10, có hai vị Tôn giả là ngài Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, là hai vị Tổ sư bên Ấn Độ, là người đầu tiên đem Kinh và Phật tượng truyền sang Trung Quốc (nước Tàu).
Khi mới sang, vua Hán Minh Đế nhường cái Hồng Lô Tự thỉnh hai vị Tôn giả tạm trú nơi ấy, sau rồi xây cất những chỗ đàng hoàng hơn cho chúng Tăng ở, từ đó gọi chỗ chúng Tăng ở là “Tự”.
LỜI PHỤ.
- Tôn giả: Là người đầy đủ đức hạnh, đáng cho dân chúng tôn kính.
BÀI THỨ 14
BA Y, BÁT, CỤ
Ấn Độ nói Ca-sa, Hán dịch : Bất chánh sắc y, cũng dịch : Phước điền y.
Y, có ba hạng :
1- An-đà-hội, tức y năm điều.
2- Uất-đa-la-tăng, tức là y bảy điều.
3- Tăng-già-lê, tức Đại y cũng gọi là y Tổ.
Tiếng Ấn Độ nói : Bát-đa-la, Hán dịch : Ứng khí, chính là cái dụng cụ đựng thức ăn, để lãnh lấy thức ăn trong khi người cúng thí (cũng dịch là Ứng lượng khí, là cái bát để lường thức ăn, nhiều hoặc ít v.v… như cái bát đi khất thực của nhà sư). Cụ, là một thứ đồ lót ngồi hoặc nằm bằng vải hoặc bố.
LỜI PHỤ.
- Bất chánh sắc y : Là y nhuộm nhiều màu pha lộn, không thành màu gì, nên gọi là hoại sắc.
- Y Tổ: Là Tổ Tổ tương truyền cái y này, y này là y 25 điều, nên cũng gọi là Đại y.
BÀI THỨ 15
PHƯƠNG TRƯỢNG
Phương trượng trong Tòng lâm là chỗ ở của bậc trụ trì. Trong bộ Truyền Đăng Lục Thiền Quy Thức nói : Bậc Trưởng lão đã làm vị Hóa chủ, thì nên ở nơi phương trượng. Đồng như cái thất của ngài Tịnh Danh, chớ không phải cái thất dành riêng để ngủ nghỉ vậy. Ngày xưa cái thất của ngài Tịnh Danh vuông vức một trượng nhưng có thể dung nạp được ba ngàn tòa sư tử; đức Văn Thù Bồ-tát hỏi pháp nơi ấy, cho nên chỉ chỗ nào hỏi pháp, thì gọi Phương trượng.
LỜI PHỤ. – Trụ trì: Là người giữ gìn kho tàng Chánh pháp của Như Lai, (tác Như Lai sứ hành Như Lai sự) gọi là trụ Như Lai thất : trì Chánh pháp Nhãn tạng.
– Trưởng lão: Là bậc đầy đủ phước đức và nhiều tuổi tác.
– Ngài Tịnh Danh: Tức ngài Duy Ma Cật. Ngài xưa là một vị Cổ Phật thị hiện làm thân Cư sĩ mà vì tứ chúng thuyết pháp ở Ấn Độ. – Tòa sư tử : Là chỗ chưng dọn để thuyết pháp, có treo tấm hình Sư tử phía sau. Sư tử là chúa của các loài thú ở sơn lâm, khi sư tử rống lên một tiếng là các loài thú đều trốn mất, vì sợ oai thế của sư tử. Nay mượn sự tích này để dụ khi Phật thuyết pháp ra một tiếng thì tất cả tà ma (nội ma, ngoại ma, phiền não ma, và vô minh ma) đều tiêu sạch.
BÀI THỨ 16
ĐIỂN TỌA, ĐÀN NA
Người chủ một công việc, thì gọi là “Điển”. Điển tọa là người coi ngó sàng tòa v.v… Coi chín việc :
1- Chủ trương coi ngó phân trao sàng tòa.
2- Chủ trương coi ngó sai người mời nhóm.
3- Chủ trương coi ngó phân phát phòng nhà.
4- Chủ trương coi ngó phân áo quần, phòng nhà.
5- Chủ trương coi ngó phân hương hoa.
6- Chủ trương coi ngó phân dưa trái.
7- Chủ trương coi ngó cắt người nấu nước uống.
8- Chủ trương coi ngó phân bánh và các thức ăn v.v…
9- Chủ trương coi ngó tùy theo ý mình mà cử người có thể làm việc được.
Ấn Độ gọi là Đàn-na. Hán dịch : Bố thí, cũng gọi là Đàn việt : Nghĩa là những người bố thí để cầu vượt qua khỏi biển khổ bần cùng trong ba cõi vậy.
BÀI THỨ 17
YẾT MA
Ấn Độ nói Yết-ma. Trung Hoa (Hán) gọi Tác pháp biện sự : Nghĩa là bao nhiêu việc trong Phật pháp, đều do pháp (Yết-ma) này mà thành tựu vậy.
Mỗi khi làm pháp Yết-ma phải đủ bốn điều kiện :
1- Giữ theo phép tắc : Nghĩa là phải tuân theo những điều kiện chính trong khi cử hành.
2- Sự thật : Nghĩa là như những việc phạm tội và sám hối.
3- Số người : Từ 4 người, 5 người cho đến 10 người hoặc 20 người v.v…
4- Giới hạn : Nghĩa là định đoạt cho những chỗ như thế nào, để làm pháp kết thành giới hạn.
LỜI PHỤ. – Yết-ma: Tức là phương pháp nhóm hội đồng của toàn chúng Tỳ-kheo, cách cử hành này cũng như một cuộc hội nghị. Có bốn điều kiện :
Điều kiện thứ nhứt. – Tuân theo phép tắc, cũng như nguyên tắc hội nghị.
Điều kiện thứ hai. – Phán đoán, xem xét, cũng như những việc đem bàn cãi giữa hội nghị.
Điều kiện thứ ba. – Số người : Cũng như số người nhóm họp để thành phần cuộc hội nghị. Nhưng phải từ bốn người (4 vị Tỳ-kheo) sắp lên mới đúng quy tắc.
Điều kiện thứ tư. – Cũng phải thành lập một cảnh trí nhứt định vừa thuận lợi vừa gọn gàng và có ranh giới để không lộn xộn. Dụ như : làng nào có ranh giới của làng ấy, cho đến nước nào đều có ranh giới của nước ấy v.v…
BÀI THỨ 18
PHÙ ĐỒ, XÁ LỢI, BẢO THÁP
Phù đồ: Là tiếng nói trại của chữ Phật Đà. Bản dịch xưa : là Minh giác. Bản dịch nay : là Cúng dường xứ (Những chỗ để cúng dường như chùa, am, tháp v.v…).
Xá lợi: Là linh cốt của Phật.
Bảo tháp: Dùng các thứ ngọc báu (thất bảo : vàng, bạc v.v…) tán ra thành bột rồi hòa trộn, nhồi lại xây đắp thành cái tháp (theo lối xưa ở Ấn Độ) nên gọi là Bảo tháp. Hoặc là trong tháp ấy có nhiều ngọc báu để cúng dường Xá lợi của Phật.
Tiếng Phạm gọi là Tháp, cũng gọi là Tột-đổ-ba. Hán dịch : Cao hiển đại phần (Cái phần mộ vừa to rộng, vừa tốt đẹp lộng lẫy).
LỜI PHỤ. - Minh Giác: Những bậc đã giác ngộ nơi bản tâm được sáng suốt tức là danh hiệu của Phật.
Cúng dường xứ: Là chỗ tháp thờ Xá lợi Phật để người cúng dường, chiêm bái cầu phước.
Xá lợi: Là linh cốt của Phật. Những bậc tu hành giới hạnh thanh tịnh như Phật, nên sau khi tịch (chết) trong tủy kết khối thành hột như viên ngọc nên gọi là Xá lợi.
Tháp: Đây lược nói theo tầng cấp của tháp. Kinh Thập Nhị Nhân Duyên nói : Tháp của Như Lai từ 8 tầng sắp lên, Bồ-tát 7 tầng, Duyên-giác 6 tầng, La-hán 5 tầng, A-na-hàm 4 tầng, Tư-đà-hàm 3 tầng, Tu-đà-hoàn 2 tầng,Chuyển luân vương 1 tầng. Nhưng chúng Tăng không lễ bái, vì Chuyển luân vương không phải là bậc Thánh nhơn xuất thế.
Trong Kinh Đại Niết Bàn, Phật dạy ngài A-nan : Sau khi Ta tịch làm lễ trà tỳ xong, lấy Xá lợi Ta để vào bình bát bằng thất bảo, rồi đem để ngay giữa ngã tư đường trong thành Câu-thi-na-già (ở Ấn Độ), dựng xây tháp bằng thất bảo, bề cao 13 tầng : Trên chót làm cái hình bánh xe, đấy là tiêu biểu : “Pháp luân thường chuyển”. Tuy là Ta nhập diệt, nhưng chỉ là thị hiện tướng nhập diệt thôi !
– Y theo bộ Luật Tăng Kỳ : Những vị phàm Tăng như : Pháp sư trì luật, Tỳ-kheo lo việc Tam Bảo, Tỳ-kheo đức hạnh, mặc dù chưa phải Thánh nhơn nhưng cũng cho dựng tháp, nhưng chỉ làm suông, chớ không làm tầng và bảo dựng chỗ vắng. Nếu trái thì mắc tội. Căn cứ theo đây, thì đời bây giờ đệ tử làm thế là sai phép tắc.
(Trích trong Phật Học Đại Từ Điển).
Cao hiển đại phần: Phần mộ lớn cao vòi vọi tức là Tháp.
BÀI THỨ 19
TUẦN LIÊU, QUÁI THÁP
Tuần liêu có 2 cách:
A- Chức tuần liêu thuở xưa phần nhiều do vị trụ trì đi xem xét các liêu của chúng Tăng.
Trong Luật Tăng Kỳ nói: Đức Thế Tôn vì năm việc nên mỗi ngày xem xét liêu của chúng Tăng một lần:
1- Lo đệ tử đắm nhiễm những việc hữu vi (hữu lậu).
2- Lo đệ tử đắm nhiễm những tục luận (sách vở thế tục có tính cách làm cho con người phải trụy lạc).
3- Lo đệ tử ham mê ngủ nghỉ.
4- Vì thăm chúng Tăng khi có bệnh.
5- Để cho thầy Tỳ-kheo trẻ tuổi coi theo oai nghi thứ lớp của Phật mà bắt chước.
B- Cách tuần liêu đời nay: Nếu Thầy Tỳ-kheo trái với pháp Thanh quy (kỷ luật), thời cần phải đi tới mỗi liêu cầu xin sám hối. Quái tháp : Là những kẻ Thiền khách (khách Tăng) đi hành khất (đi du phương) đến chùa, ta bằng lòng và chỉ chỗ cho họ treo bát, máng y ở nơi đất (chùa) vậy.
BÀI THỨ 20
SA DI, TỲ KHEO, SA MÔN
Tiếng Phạm gọi Sa-di. Hán dịch: Tức từ. Tức, có nghĩa là dứt các sự nhiễm ô ở đời; Từ, có nghĩa là ban bố lòng lành tế độ chúng sanh vậy.
Tiếng Phạm gọi Tỳ-kheo. Hán dịch: Khất sĩ. Khất sĩ: trên thì xin cầu Chánh pháp của chư Phật để thấm nhuần nơi tâm; dưới thì xin cơm của người Đàn việt nuôi thân này được sống còn để thừa hành giáo pháp của Phật.
Sa-môn: Sánh với Sa-di thì chẳng đồng nhau, bởi tiếng Phạm gọi Sa-môn. Hán dịch: Cần tức. Cần có nghĩa là siêng năng làm các việc từ thiện; Tức có nghĩa là dứt hết những điều ác (nhiễm ô theo dục lạc).
LỜI PHỤ.- Sa-di chẳng đồng với Sa-môn; là Sa-di cũng có nghĩa là dứt ác, làm lành. Nhưng chỉ giữ có 10 giới thôi; còn Sa-môn thì giữ đến 250 giới của Tỳ-kheo vậy.
BÀI THỨ 21
DUY NA, TĂNG TRỊ, KIỀN CHÙY, TÍCH TRƯỢNG
Duy-na: Chức Duy na ở bên Ấn Độ cùng với nước ta không đồng nhau. Vì sao ? Bởi Ấn Độ thẳng ngay chức Duyệt chúng gọi là Duy na, còn ở nước ta ngoài chức Duy na có thêm chức Duyệt chúng.
Tăng trị: Trong chúng Tăng luân phiên trị nhựt, để xem xét các việc chùa và chúng vậy.
Kiền chùy: Tức là bên Tây Vức (Ấn Độ) mỗi khi tới kỳ nhóm chúng, thường đánh lên những tiếng: Chuông, trống, mõ, và khánh v.v… để chúng Tăng biết thời nhóm họp gọi là tiếng Kiền chùy.
Tích trượng: Tích trượng cũng gọi là Trí trượng. Thầy Tỳ-kheo đi khất thực, khi đến ngoài cửa nhà của người, thì rung cây tích trượng cho có tiếng kêu lên nghe lích tích, lích tích, để cho người biết đúng thời mà đem cơm ra cúng thí. Trên đầu cây tích trượng có làm 4 khâu 12 vòng, để tiêu biểu cho pháp Tứ đế và pháp Thập nhị nhân duyên vậy.
LỜI PHỤ. – Duy na: Là người đứng bên chuông (Khi khóa lễ để ra ni mẫu cách thức cho chúng noi theo, cũng như người chỉ huy ra hiệu lịnh).
Còn Duyệt chúng: Là người đứng bên mõ, đánh mõ cho có trường canh, theo điệu “tiền bần hậu phú”. Ban đầu tụng tiếng nhỏ và hưỡn đãi, sau lần lớn và mau, làm cho trong chúng sanh lòng vui thích nên gọi là Duyệt chúng.
Tích trượng: Tích, là sắt, trượng, là gậy, nghĩa là cây gậy bằng sắt, có ba ý:
1- Khi rung làm cho người trong nhà biết đem cơm ra cúng dường.
2- Khi đi đường gặp chó dữ nó nhảy ra muốn cắn; liền đưa cái đầu gậy tích (có 4 khâu, 12 hườn) này cho nó cắn, nó cắn một hồi mệt mỏi thì nó phải thua.
3- Khi qua sông, rạch, trước hết phải lấy cây tích dò thử coi cạn sâu để tránh sự ướt át… hiểm nguy.
Trí trượng: Có nghĩa là người tu hành nương nhờ cây gậy này mà sự tu hành càng thêm tăng tiến và phát sanh trí huệ, nên gọi là Trí trượng.
BÀI THỨ 22
XUẤT GIA, THIỀN HÒA, PHÁP SƯ
Xuất gia: Xuất gia có ba nghĩa:
1- Ra khỏi nhà tam giới (ba cõi),
2- Ra khỏi nhà phiền não,
3- Ra khỏi nhà tham, sân, si, mạn v.v…, chớ chẳng ra khỏi nhà thế tục mà thôi đâu.
Thiền hòa: Người tu theo pháp tham thiền, cần phải giữ gìn đủ sáu pháp hòa kính.
Pháp sư: Là người miệng giảng Phật pháp; thân thì làm Phật sự, chắc chắn người ấy (Pháp sư) có thể làm rường cột trong Phật pháp và quyết chí đem lại sự đại giác ngộ cho nhân sanh, nên gọi là Pháp sư.
LỜI PHỤ.– Sáu pháp hòa: (nên xem chữ Tăng bài thứ ba…) đã giải ở trang 9.
Rường cột: Cũng như nói căn bản, là người có thể làm giềng mối cho Phật pháp vậy.
BÀI THỨ 23
BA TẠNG, MƯỜI HAI BỘ KINH
Ba tạng: Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng vậy.
Bài kệ mười hai bộ Kinh:
Trường hàng, Trùng tụng cùng Cô khởi,
Thí dụ, Nhân duyên với Tự thuyết,
Bổn sanh, Bổn sự, Vị tằng hữu,
Phương quảng, Luận nghị và Ký biệt.
LỜI PHỤ. – Chữ Tạng: Có nghĩa cất chứa, cũng đồng với chữ tàng (chứa trữ), kho tàng chứa. Trữ những lời lẽ vừa thích hợp với chơn lý và vừa thích hợp với căn cơ của chúng sanh, mà Đức Phật Thích Ca đã nói, rồi các Tổ ghi chép thành văn tự để lại cho đến ngày nay.
Mười hai bộ: Chữ bộ cũng như chữ phần, như Mười hai phần v.v… Trong Mười hai phần này gồm đủ sự và lý. Trong một thời gian thuyết giáo của đức Bổn Sư gần năm mươi năm có chia làm Ba tạng và Mười hai bộ.
BÀI THỨ 24
THIỀN, LIÊU NGUYÊN, HÒA THƯỢNG
Thiền, tiếng Phạm gọi là Thiền-na. Hán dịch: Tịnh lự, cũng dịch: Tư duy tu (tu bằng cách suy nghĩ).
Liêu nguyên: Cũng gọi là Liêu thủ tọa, nghĩa là những bậc có trọng trách xem xét những điều phi pháp trong các liêu, và điều hòa những việc tranh luận không thỏa thuận, cùng dạy vẽ những quy củ (phép tắc) cho những người mới tới (ở đạo) vậy.
Hòa thượng: Là tiếng nước Hồ (Ấn Độ). Hán dịch: Lực sanh: Nghĩa là đạo lực của Ngài có thể làm cho đệ tử phát sanh trí huệ vậy. Cũng dịch là Thân giáo sư.
LỜI PHỤ. – Tịnh lự: Những việc lo lắng lăng xăng trong tâm đã được yên lặng, tức là “Định”.
Tư duy tu: Theo pháp Chánh tư duy.
Chánh tư duy: Là một trong tám pháp (Bát Chánh đạo).
Liêu nguyên: Là người đầu liêu, tức là vị Thủ tọa là người làm đầu trong liêu đó “Liêu thủ”.
Đệ tử: Chữ Đệ là em: nghĩa là người học sau thầy cũng như em; Tử là con: nghĩa là nhờ thầy dạy vẽ mới sanh được trí huệ. Tức là trí huệ của đệ tử do thầy khai sáng mới phát sanh được nên gọi là Tử. Cũng như con.
BÀI THỨ 25
BA CÕI , SÁU ĐƯỜNG, VÔ MINH
Ba cõi: Cõi Dục, cõi Sắc, và cõi Vô sắc.
Sáu đường: Trời, người, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
Vô minh: Không sáng suốt. Không sáng suốt có ba:
1- Không nhận rõ được thân thể của ta đây là không thật có (vô ngã).
2- Không nhận rõ được muôn vật cõi đời này, rốt cuộc phải tan rã (vô ngã sở) tất cả đều không thật.
3- Không nhận rõ được tất cả đều giả dối (như huyễn không thật thể, như mộng v.v…).
LỜI PHỤ.- Cõi Dục (Dục giới): Chúng sanh ở trong cõi này tâm ham muốn rất nhiều (đa dục) mặc dù vẫn nhiều sự ham muốn, nhưng tóm lại cũng không ngoài năm món dục lạc (Tài, sắc, danh, thực và thùy. Hay : Sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp).
Cõi Sắc (Sắc giới): Chúng sanh ở cõi này tuy đã bớt sự ham muốn, nhưng còn có sắc thân, còn phải chịu nhiều điều khổ sở, bởi có thân nên phải có sự “ngũ suy tướng hiện” v.v…
Cõi Vô Sắc (Vô sắc giới) : Chúng sanh ở cõi này tu thiền cao hơn hai cõi trước, nhưng cũng không tránh khỏi luân hồi, bởi ý thức chưa chuyển được. Mặc dù chứng đặng năm phép thần thông, thí cũng như bốn anh em của giòng Phạm chí… hay hơn nữa như ông Uất-đầu-lam-phất kia vậy.
Tu-la: Thần A-tu-la. Loại thần này ở gần đỉnh trời Đao Lợi vẫn được sung sướng như trời. Tu-la trai xấu, Tu-la gái rất đẹp, đẹp hơn tiên nữ, nên trời Đế Thích thường xuống theo ve vãn Tu-la gái, bị Tu-la trai ghen tức, nên cùng chiến đấu với nhau luôn. Tu-la cũng là người, nhân vì có tu thiện, nhưng tánh đa sân (sân lắm) v.v…
Tu-la có 4 loại: Đây là một trong bốn loại ấy.
Ngạ quỷ: Loại quỷ đói, đấy là do nguyên nhân đời trước tham lam, keo rít bỏn sẻn, lường gạt người v.v… nên nay mới mang lấy cái quả báo ấy…
Vô minh: Một món căn bản phiền não, là món ngu dại đầu tiên trong các sự ngu dại. Không có cái gì khổ hơn cái khổ vô minh (không nhận rõ được sự thật của các pháp).
Đức Phật dạy : Con lạc đà, lừa, ngựa, trâu chịu sự khổ vì chuyên chở nặng nề. Nhưng cũng chưa gọi đó là khổ; chỉ có người si ám tối dốt (vô tri) mới thật là khổ. Vô tri tức là Vô minh vậy.
BÀI THỨ 26
DIÊM LA
Tiếng Phạm: Diêm-la. Hán dịch: Song vương.
Trong Kinh nói: Xưa có hai anh em, em (em gái) đều làm chủ trong địa ngục, người anh thì coi xếp việc trị phạt đàn ông; người em thì cai quản việc trị phạt phái đàn bà cho nên nói: Song vương (hai vua).
Trong bộ “Pháp Uyển Chu Lâm” nói: Vua Diêm-la đời trước làm quốc vương nước Tỳ-bà-sa, nhân một hôm gây hận chiến tranh với vua Duy-đà-như-sanh, nhưng đánh không lại, cùng trí, nổi giận mới lập lời nguyền : Ta sẽ làm chủ địa ngục.
LỜI PHỤ.- Địa ngục: Tiếng Phạm gọi: Na-lạc-ca. Địa: là đất; Ngục: là nhà lao để giam những người có tội, tùy theo chỗ mà đặt tên, như : ở dưới đất gọi là Địa ngục v.v…, cũng gọi là chỗ không vui mừng và không hý vị; đáng ghê tởm và đáng chán ghét!
Hai vua thệ làm chủ địa ngục : Đó là nhân nào quả nấy, chúng sanh trong sáu đường cũng không ngoài nhân với quả. Cho đến bốn bậc Thánh đi nữa, cũng không ngoài quả với nhân!
Vậy hàng Phật tử chúng ta phải thận trọng nơi lời nói, nhứt là đừng thề thốt. Nên phát nguyện tu cho thành Phật!
BÀI THỨ 27
TỨ PHẦN LUẬT, A TĂNG KỲ, HẰNG HÀ SA SỐ
Tứ Phần Luật:
1.- Phần đầu nói rõ về việc của Tỳ-kheo.
2.- Phần thứ hai, nói rõ về việc của Tỳ-kheo-ni.
3.- Phần thứ ba, nói rõ về việc An cư Tự tứ.
4.- Phần thứ tư, nói rõ về những việc phòng xá (Tăng phòng).
Tiếng Phạm A-tăng-kỳ. Hán dịch: Vô ương số.
Hằng hà: Là một con sông lớn nhứt ở xứ Ấn Độ, những cát trong lòng sông rất nhỏ, nhuyễn như bột và nhiều vô số. Mỗi khi Đức Thế Tôn thuyết pháp những việc gì nhiều và con số nào mà chúng sanh không thể đếm được thì Phật thường mượn để thí dụ.
LỜI PHỤ.- An cư: An cư là mỗi năm Tăng chúng kiết hạ ở một chỗ. Từ Rằm tháng Tư đến Rằm tháng Bảy. Một là : Mùa ấy là mùa mưa, nếu đi ra ngoài thường quá thì đạp hại loại trùng kiến. Hai là: Mỗi năm Tăng chúng nhóm họp lại tu trong ba tháng để cùng nhau kiểm điểm giới hạnh trong một năm qua; mỗi một hạ thì được lãnh thêm một tuổi đạo.
Tự tứ: Cũng gọi là tùy ý. Nghĩa là ngày giải hạ “Rằm tháng Bảy” là ngày chúng Tăng tự tứ. Trong ba tháng tu tập đã sửa đổi hành vi thanh tịnh, nhưng ngày ấy, còn phải cần cầu toàn thể chúng Tăng đồng giới, chỉ cho những tội nào mà chúng Tăng có ai thấy, nghe và nghi. Tùy ý chúng Tăng chỉ cho tội nào, mà tội ấy nếu ta nhớ rõ và nhận, ta đều hoan hỷ sám hối, để cho được hoàn toàn thanh tịnh của một hạ v.v…” Đây không chép hết, xin xem phần kiết hạ an cư trong bộ Luật Tứ Phần”.
BÀI THỨ 28
THUẤN NHÃ ĐA TÁNH, THƯỚC CA LA TÂM, THẬP PHƯƠNG TAM THẾ
Thuấn nhã đa tánh: Hán dịch: Không tánh (tánh như hư không).
Thước-ca-la tâm: Hán dịch: Kiên cố tâm (tâm bền chắc).
Thập phương: Mười phương: Đông, Tây, Nam Bắc, bốn góc và thượng hạ.
Bốn góc là gì? Là: Góc Đông Nam, góc Tây Nam, góc Đông Bắc và góc Tây Bắc.
Tam thế: Ba đời: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
LỜI PHỤ.- Mỗi một vật gì không luận lớn nhỏ cũng liên lạc cả mười phương (thập phương). Dầu nhỏ như hạt bụi cũng thế. Bởi vậy, người sanh trong vũ trụ này, chẳng luận làm tội hay phước, lớn hay nhỏ hoặc trung bình cũng đều có đem lại sự kết quả cho ta đủ số không thiếu cũng không dư. Xem đây, người tu phải nên thận trọng!
BÀI THỨ 29
TIỂU TAM TAI, TAM ĐỒ
Tiểu tam tai:
1- Tai ôn dịch;
2- Tai đói rét;
3- Tai đao binh
Tam đồ:
1- Hỏa đồ: Chỗ bị lửa dữ thiêu đốt trong địa ngục.
2- Huyết đồ: Chỗ bị ăn nuốt lẫn nhau trong loài súc sanh.
3- Đao đồ: Chỗ dùng đao gươm áp bức với nhau trong loài ngạ quỷ.
LỜI PHỤ.- Tiểu tam tai: Trong một kiếp trụ có 20 kiếp tăng và giảm, khi ba tai này nổi lên là sau kiếp giảm.
Ba tai :
1- Tai đao binh (nạn chiến tranh : chiến tranh từ cá nhân đến đoàn thể). Thời kỳ này, con người làm việc phi pháp lòng sâu độc quá mạnh, thấy nhau là có tâm muốn hại nhau, tuy nắm tay nhau mà vẫn tàn hại lẫn nhau.
2- Tai tật dịch: Thời kỳ này, con người không những chịu sự tai hại như trên, mà còn bị loài phi nhân phun khí độc nên chúng sanh bị tật dịch. Hễ ai vô phước ruông nhằm khí độc ấy, liền bỏ mạng.
3- Tai cơ cẩn (đói rét): Thời kỳ này, chúng sanh không những bị hai cái tai hại như trên, mà còn bị đói chịu không nổi phải chết. Đây là ba tai nhỏ nên gọi là tiểu.
BÀI THỨ 30
TÁM NẠN VÀ ĐẠI TAM TAI
Tám nạn:
1- Sanh lên cõi trời Vô tưởng.
2- Sanh nơi châu Bắc Câu Lô.
3- Sanh trước khi Phật ra đời, sanh sau khi Phật nhập diệt.
4- Thông minh biện tài giỏi theo pháp thế gian.
5- Đui điếc câm ngọng.
6- Đọa vào địa ngục.
7- Đọa làm ngạ quỷ.
8- Đọa làm loài súc sanh.
Đại tam tai: 1- Tai nước. 2- Tai lửa. 3- Tai gió.
LỜI PHỤ.- Đại tam tai: Ba tai lớn. Qua khỏi kiếp trụ, bước qua kiếp hoại. Kiếp hoại cũng có 20 kiếp tăng và giảm, 19 kiếp trước là làm hư hoại loài hữu tình (chúng sanh) trong thế gian, 1 kiếp sau là làm hư hoại loài vô tình (của địa cầu) tức là làm hư hoại cả thế giới !
Ba tai lớn:
1- Tai lửa: Bảy mặt trời mọc ra một lượt, sức nóng thiêu đốt cả thế giới này. Dưới từ cõi địa ngục, trên đến cõi trời Tứ thiền, về cõi Dục.
2- Tai nước: Nước dâng lên từ dưới Kim cang (lớp cuối cùng của trái đất) cho đến cõi trời Nhị thiền.
3- Tai gió : Gió thổi từ dưới địa ngục Vô gián, trên đến cõi trời Tam thiền, về cõi Sắc giới, tất cả sự vật giữa cõi này bị gió thổi tan tành. qua 7 lần tai lửa thì có thêm một tai gió thế là 3 tai giáp một vòng. Tổng cộng có 87 lần tai lửa, 1 lần tai nước, lẫn tai gió. Tóm lại kể có 64 đại tai tức là 64 đại kiếp. Trong một đại kiếp có : Thành, trụ, hoại và không (4 kiếp) mà kiếp hoại là kiếp cuối cùng, có một lần đại tai vậy.
(Lược chép trong Phật Học Đại Từ Điển).
Cứ thứ lớp như vậy, trước 7 lần tai lửa thì đến một lần tai nước. Rồi lại 7 lần tai lửa, thì có một lần tai nước. Như vậy, cứ 7 lần lửa, một lần nước; 7 lần nước rồi trải qua 7 lần tai lửa thì có thêm một tai gió thế là 3 tai giáp một vòng. Tổng cộng có 87 lần tai lửa, 1 lần tai nước, lẫn tai gió. Tóm lại kể có 64 đại tai tức là 64 đại kiếp. Trong một đại kiếp có : Thành, trụ, hoại và không (4 kiếp) mà kiếp hoại là kiếp cuối cùng, có một lần đại tai vậy. (Lược chép trong Phật Học Đại Từ Điển).
BÀI THỨ 31
TỨ ÂN, TAM HỮU
Tứ ân(bốn ơn):
1- Ân cha mẹ sanh trưởng.
2- Ân sư trưởng giáo hóa cho nên người.
3-Ân chánh phủ bảo hộ
4- Ân đàn việt bố thí (giúp đỡ).
Tam hữu (ba cõi):
1- Cõi còn có tánh tham, có xác thân(Dục giới).
2- Cõi không còn tánh tham, nhưng còn có xác thân (Sắc giới).
3- Cõi không còn tánh tham và xác thân thô, nhưng còn có ý thức (cõi Vô sắc).
Tam giới cũng gọi là Tam hữu, nghĩa là những chúng sanh ở trong ba cõi ấy là đều có phiền não; có sanh tử, có đau khổ, cho nên gọi là Tam hữu (ba cõi đều có đau khổ).
LỜI PHỤ.- Tam giới, tức là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Tam hữu cũng thế.
BÀI THỨ 32
TỨ SANH, CỬU HỮU
Tứ sanh:
1- Loài sanh bằng bào thai (như loài người, trâu, bò, lừa, ngựa v.v…).
2- Loài sanh bằng trứng (như loài chim, gà, vịt, rắn v.v…).
3- Loài sanh chỗ ẩm ướt (như loài trùng, cá, tôm, v.v…).
4- Loài sanh do sự biến hóa (trên như : chư thiên, dưới như : địa ngục, chính giữa như : ruồi, muỗi, ong, bướm v.v… trong thời kỳ mới sanh v.v…) tùy nghiệp lực hóa sanh ra đều có sanh mạng vậy.
Cửu hữu: (Chín cõi này còn có đau khổ vì còn sanh tử): 1- Lục đạo, 2- Trời Sơ thiền, 3- Trời Nhị thiền, 4- Trời Tam thiền, 5- Trời Tứ thiền, 6- Trời Không xứ, 7- Trời Thức xứ, 8- Trời Vô sở hữu xứ, 9- Trời Phi phi tưởng xứ.
LỜI PHỤ.- Tứ sanh: Sanh bằng bào thai, sanh bằng trứng, sanh nơi ướt át và sanh do sự biến hóa. Nhưng cũng có một loài mà sanh đủ cả bốn nơi :
1- Người sanh ra người gọi là thai sanh
2- Trứng sanh ra người như: trứng hạt sanh ra ông Do-thế-la và ông Ô-ba-thế-la (?)
3- Súc sanh sanh ra người như thuở xưa Lộc mẫu (nai cái) sanh ra 500 người con như vua Bậc-cha-la-vương 500 người v.v…
4- Chỗ ẩm ướt sanh ra người, như: Đàm-đà-la, Giá-lô, Ô-ba-giá-lô, Cấp-phái và Am-la-vệ v.v…
5- Biến hóa sanh ra người, như người sơ kiếp (kiếp ban đầu)
Hỏi: Thai, trứng, ướt sanh ra loài súc sanh thì chúng ta còn thấy được, còn biến hóa sanh thì làm sao biết được?
Đáp: Như loại rồng, chim Yết-lộ-trà và cũng như tầm hóa nhộng v.v… Ong hóa bướm.
Kế đây, loài ngạ quỷ cũng có hai thứ : thai sanh và hóa sanh. Thai sanh như ngạ quỷ cái, ngày đêm nó ăn năm đứa con của nó. Hóa sanh như : những người dưới địa ngục, chư Thiên và trong loài người, cũng đều có biến hóa sanh, vì tùy nghiệp lực tự nhiên bỗng phát sanh để chịu khổ trả quả (xem Luận Câu Xá quyển thứ 8 có nói rõ), căn cứ theo đây thì sự sanh tử luân hồi của chúng sanh không biết đâu là bờ mé, nếu còn sa mê theo vật dục!
BÀI THỨ 33
TAM QUY
Mình quy y theo Phật, cầu cho chúng sanh nhận rõ đạo lớn (Đại thừa) phát tâm Vô thượng.
Mình quy y theo Pháp, cầu cho chúng sanh, rõ suốt Kinh tạng, trí huệ rộng như biển.
Mình quy y theo Tăng, cầu cho chúng sanh, thống lý đại chúng, tất cả đều không ngại.
Nhận rõ đạo Đại thừa, phát tâm Vô thượng v.v… hai câu, xét trong phẩm Tịnh Hạnh, nguyên là câu: “Nối giòng Phật thạnh hành, phát ý Vô thượng”.
Quy y bậc Lưỡng Túc Tôn (Phật), là phước huệ đầy đủ. Phước đức và trí huệ đầy đủ hai món ấy, cho nên được chúng sanh tôn ngưỡng.
Quy y bậc pháp Ly Dục Tôn (Pháp), là bậc đã xa lìa được những pháp tham dục, cho nên được người đời tôn kính.
Quy y bậc Chúng Trung Tôn (Tăng), là bậc đại Đạo sư trong đại chúng, cho nên chúng Tăng phải tôn trọng.
LỜI PHỤ.- Đạo lớn: Là đạo Đại thừa.
Vô thượng: Tức là Vô thượng Bồ-đề tâm, tâm này trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh.
Kinh tạng, cũng như kho tàng, là chỉ ba tạng Kinh của Đức Phật, Ngài diễn nói trong 49 năm, đủ cả lý Đại thừa và Vô thượng.
Thống trị đại chúng: Nói về sự, thì bậc thông hiểu ba tạng, biết đủ oai nghi, chỉ dạy cho cả đại chúng. Còn luận về lý, thì bậc này đã dẹp trừ được tất cả phiền não nơi tâm mà được giải thoát, ấy cũng nhờ hiểu sâu Kinh tạng, trí tuệ rộng lớn như biển.
Đạo sư: Là người dắt đường, nghĩa là dắt ta đi đến đường giác ngộ và giải thoát vậy.
BÀI THỨ 34
TỨ CHÂU, NHỊ THẬP NGŨ HỮU
Tứ đại bộ châu: (bốn châu lớn trong vũ trụ):
- Tiếng Phạm gọi: “Diêm-phù-đề” tức là Nam Thiệm Bộ châu (tên cây) dịch ý là Thắng kim (của quý lạ rất nhiều.)
- Tiếng Phạm gọi: “Phất-bà-đề” tức là Đông Thắng Thần châu, vì thân người ở châu này rất đẹp.
- Tiếng Phạm gọi: “Cù-đà-ni” tức là Tây Ngưu Hóa châu vì châu này sản xuất loại trâu rất nhiều (mua bán, đổi chác đều nhờ trâu cũng như cõi này nhờ tiền).
- Tiếng Phạm gọi: “Uất-đơn-việt” tức là Bắc Cu Lô châu. Hán dịch: “Thắng xứ” (phong cảnh của châu này rất đẹp).
Bài kệ nhị thập ngũ hữu:
Tứ vực, Tứ ác thú,
Lục dục, Tịnh cư thiên,
Tứ thiền, Tứ vô sắc;
Vô tưởng, cấp Bất hoàn.
Vô tưởng (Vô tưởng thiên) và cõi Bất hoàn (Tịnh cư thiên).
LỜI PHỤ.- Diêm-phù-đề: Là một thứ cây ở giữa châu Nam Thiệm Bộ này, hoa sắc vàng rất đẹp hơn vàng thiệt, nên gọi là Thắng kim.
Đông Thắng Thần châu: Vì châu này con người xinh đẹp lạ thường, nên gọi Thắng thần hay Thắng thân.
Tây Ngưu Hóa châu: Châu này sản xuất loại trâu rất nhiều, người ta lấy trâu làm của cải mua bán, đổi chác, nên gọi châu Ngưu hóa.
Bắc Cu Lô châu: Người sanh vào châu này, sự sung sướng như cõi trời, nên gọi là Thắng xứ, rất thù thắng (thiệt đẹp).
Bốn châu đây, mỗi châu cũng gọi là quả địa cầu, hay bốn thế giới, mỗi thế giới có nhựt, nguyệt, có núi Tu Di. Song, trong bốn châu này không phải như năm châu : Âu, Á, Úc, Mỹ, Phi, mà người đời thường gọi.
BÀI THỨ 35
A DI ĐÀ PHẬT
(Vô Lượng Thọ hay Vô Lượng Quang)
Kinh A Di Đà nói: Phật bảo: Này Xá-lợi-phất! Đối với ý ông nghĩ sao? Phật kia tự sao hiệu là A Di Đà. Này Xá-lợi-phất! Bởi Đức Phật kia hào quang vô lượng, soi sáng cùng khắp mười phương, không chỗ nào ngăn ngại, thế cho nên hiệu Ngài là A Di Đà! Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Đức Phật và nhân dân trong nước của Ngài, sống lâu không lường, không ngằn mé, kiếp số A-tăng-kỳ, thế nên hiệu Ngài là A Di Đà. Này Xá-lợi-phất! Phật A Di Đà từ khi thành Phật đến nay kể có hơn mười đại kiếp.
LỜI PHỤ. – Phật bảo (gọi) đó là Phật Thích Ca hỏi ông Xá-lợi-phất. Kinh này không ai hỏi, mà Phật tự hỏi ông Xá-lợi-phất. Rồi Phật tự giãi bày, để cho ông và chúng hội được hiểu bản nguyện của Phật A Di Đà đặng cầu sanh về cõi Tịnh Độ. Tại sao đệ tử vẫn nhiều mà Phật chỉ kêu ông Xá-lợi-phất?
- Do ông là bậc Trí huệ đệ nhứt trong hàng Thinh-văn, mới lãnh hội được thâm ý của Phật muốn giới thiệu cảnh giới Bất khả tư nghì của Đức Phật A Di Đà kia cho chúng sanh biết. Cũng như trong Kinh nói: Kinh này là pháp khó tin mà nếu ông tin; thời tất cả chúng hội đều tin. Cũng như ngài Văn Thù là bậc Đại trí trong hàng Bồ-tát, mà ngài tin thì cả chúng hội đồng tin. Hơn nữa, Kinh này việc độ sanh là việc cần gấp. Nên Đức Phật không đợi ai thỉnh, mà Ngài tự thuyết. Bởi vì phương pháp độ sanh là thuyết pháp vậy.
BÀI THỨ 36
A DI ĐÀ PHẬT (tiếp theo)
Lại nữa này Xá-lợi-phất ! Đức Phật kia có vô lượng vô biên đệ tử Thinh-văn đều là bậc La-hán, chẳng phải dùng toán số thí dụ mà có thể biết được. Các Bồ-tát đông nhiều cũng lại như vậy.

LỜI PHỤ.- Thinh-văn: Là nghe tiếng tăm của Phật nói pháp Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) mà ngộ đạo nên gọi là Thinh-văn. Hoặc nghe pháp Thập nhị nhân duyên mà giác ngộ, thì gọi là Duyên-giác, hay là ra đời không gặp Phật, tự mình quán sát pháp Thập nhị nhân duyên mà giác ngộ thì gọi là bậc Độc-giác.
BÀI THỨ 37
BỒ ĐỀ, ĐẠT MA, A NAN, XÁ LỢI PHẤT
Tiếng Phạm nói: Bồ-đề, Hán dịch Giác đạo, tức là cái quả vị Phật chứng vậy. Đương ngày Đức Thích Tôn ngồi dưới gốc cây Tất-bát-la thành Phật, nhân đó đặt tên cây ấy là Bồ-đề.
Tiếng Phạm: Đạt-ma, Hán dịch: Pháp. Chữ Đạt-ma dịch là pháp đây so với chữ Đạt-ma tên của một vị Tổ sư bên Thiền tông thì không đúng. Vì sao ? Bởi chữ Đạt-ma kia là Bồ-đề Đạt-ma là tên người, Tổ ở xứ Nam Thiên Trúc Ấn Độ.
A-nan, Hán dịch: Khánh Hỷ: Nghĩa là ngày sanh ông lại nhằm ngày Đức Thế Tôn thành đạo, do sự vui mừng mà đặt tên ông là Khánh Hỷ.
Xá-lợi-phất, Hán dịch : Thu Tử. Vì cặp mắt của mẹ ông sáng long lanh như mắt chim Thu-lộ.
LỜI PHỤ. - Bồ-đề: Dịch là Giác tri (trí sáng suốt). Đức Phật ngồi dưới gốc cây Tất-bát-la mà chứng quả Bồ-đề, nên gọi cây ấy là Bồ-đề. Thế đủ biết không những cây Tất-bát-la mới là Bồ-đề (?)
Đạt Ma: Dịch là Pháp, là một trong ba ngôi Tam Bảo (Phật-đà-da, Đạt-mạ-da và Tăng-già-da). Còn đức Đạt-ma Tổ sư thứ 28 bên cõi Tây Thiên Trúc (Ấn Độ), khi qua Trung Hoa truyền đạo Ngài là vị Sơ Tổ tức là vị Tổ bên phái Thiền tông.
A-nan: Là em con nhà chú, tức là con vua Hộc Phạn vương, còn Phật là anh con nhà bác tức là con vua Tịnh Phạn. Khi Thái tử Sĩ-đạt-ta thành Phật, đồng thời trong cung người chú lại sanh Thái tử, cũng trong một ngày mà cả nước nhận được hai tin mừng, thật là ít có và khó được, nên đặt tên là (Khánh Hỷ). Xá-lợi-phất: Dịch là Thu Tử. Tử là con. Thu là chim Thu-lộ. Ông này tức là con của bà Thu-lộ, đó là một danh từ đáng quý để gọi một vị có trí huệ bậc nhứt.
BÀI THỨ 38
ĐỒNG TỬ CÚNG PHẬT
Ngày xưa, có người Đồng tử hỏi thầy Tỳ-kheo: Các cõi trời do phước báu gì mà được ? Thầy Tỳ-kheo đáp : Phước báu ấy do nhờ cúng dường Phật và chúng Tăng một bữa ăn. Đồng tử rất vui mừng, liền đi làm công cho người, lãnh được một số tiền, về mua sắm cỗ chay thỉnh Phật và chúng Tăng để cúng dường, chúng Tăng đến trước, đồng tử đi thỉnh Phật.
Phật dạy: Nguyện vọng của người đã thỏa mãn rồi.
Gặp nhằm ngày Tiết nhựt (lễ) chúng Tăng không ăn chiều, đồ ăn còn thừa (dư), bỗng có năm trăm người lái buôn, mua cơm không được, đói, đồng tử vội lấy cơm còn thừa ra đãi cho, những người lái buôn kia cảm tình, mỗi người tặng cho một hột châu để làm kỷ niệm. Đồng tử ban đầu từ chối, từ chối không được, đến bạch Phật.
Phật dạy: Đó là phước báu hiện tại của người vậy. Khi ấy đồng tử mới dám nhận. Sau đó người trưởng đoàn lái buôn hỏi ra mới biết con của người bạn cũ của mình, thế rồi làm mối con gái ông Trưởng giả, Trưởng giả gả cho. Việc này đồn thấu đến triều đình, vua rất khen ngợi và ban tước là Trưởng giả…
LỜI PHỤ. - Đồng tử: Là kẻ thanh niên hay thiếu niên (trẻ tuổi)..
Tiết nhựt: Những ngày lễ hay tết v.v…
Trưởng giả: Tiếng tôn xưng những người giàu có, phước đức, tuổi tác.
Ôi! Cúng dường Phật và chúng Tăng một bữa ăn mà được công đức cùng phước báu như thế, đấy đều do lòng chí thành và hoan hỷ mới được, như đồng tử không tiền, nghe nói, phát nguyện đi làm công v.v… thì ta đủ biết tấm lòng chơn thành, nó đem lại sự kết quả như thế nào!
BÀI THỨ 39
THẬN VẬT PHÓNG DẬT
Tối sáng như tên bắn, ngày tháng tợ thoi đưa, sự vô thường rất nhanh chóng, chúng ta đâu nên dần dà ! Ngày nay đã qua, thân người cũng già lần, như cá thiếu nước, nào có vui sướng gì ? Đại chúng hãy siêng năng tinh tấn, như cứu lửa cháy trên đầu, chỉ nhớ vô thường; cẩn thận chớ buông lung.
LỜI PHỤ. - Vô thường: Chỉ cho thân tứ đại (đất, nước, lửa và gió) giả hợp, không ai làm chủ tể được sự sanh, già, bệnh và chết. Vô thường cũng là một cái tên “chết”, và kêu bằng cách khác vậy.
Phật bảo: Ta phải nghĩ cái thân vô thường, thì tự nhiên lòng chấp ngã cũng bớt dần, cái chấp ngã đã giảm bớt, thì lòng Từ bi nảy nở, biết thương mình thương người, thì thái độ tranh đấu giành giựt giữa người và người, người và vật lần chấm dứt, ấy cũng là một quy luật hòa bình trong đời hiện tại cho đến tương lai. Có vậy, mới trừ được lòng tham, sân, si mà trở nên giới, định, huệ, mới minh tâm kiến tánh thành Phật tác Tổ được.
BÀI THỨ 40
NGỘ SÁT HỮU BÁO
Ngày xưa, có thầy Tỳ-kheo trẻ tuổi, hầu hạ một thầy Tỳ-kheo già, trời đã sắp tối, mà đi qua một con đường hiểm trở. Ông mới xô đẩy hối đi cho mau, thầy Tỳ-kheo già vấp té chết. Đại chúng đem việc ấy bạch Phật và kiết tội Bất cộng trụ (Không cho ở chung).
Phật hỏi thầy Tỳ-kheo trẻ tuổi:
– Ông có ác ý như thế không?
Thầy Tỳ-kheo trẻ tuổi bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn! Con không có ác ý như thế.
Nhân đó Phật kể chuyện lại cho đại chúng nghe:
– Thầy Tỳ-kheo trẻ này đời trước là cha của thầy Tỳ-kheo già ấy. Một hôm, ông ngồi giặt áo ở bờ sông, người cha nằm ngủ dưới gốc cây, trên trán người cha có một con muỗi đậu cắn, người con thấy thế liền đuổi mà nó không bay, tức giận lấy chày đập muỗi, lỡ tay bể trán cha chết.
Như thế đời nay và đời trước đều giết lầm lẫn nhau cả. Nên không phạm (giới) tứ trọng tội. Song mà nhân với quả không bao giờ sai lạc.
LỜI PHỤ. - Bất cộng trụ: Là tội Tứ khí: Bốn tội bỏ ra ngoài chúng Tăng không cho ở trong Phật pháp, nhưng mà vô tâm thì không phạm, chỉ phạm cái tội nhẹ hơn, theo Luật tông có phân rành v.v…
BÀI THỨ 41
KÍNH PHẬT
Kinh Pháp Hoa nói: Vào trong tháp miếu có thờ Phật tượng mà niệm một tiếng “Nam mô Phật” hay đưa tay lên hoặc cúi đầu xuống để tỏ lòng cung kính, đều được thành Phật.
Thế cho nên khi vào Phật điện cần phải nghiêm trang cung kính, không được mang đồ vật theo, và trông qua ngó lại, hoặc nói cười khạc, nhổ, nương tựa hay ngồi nằm v.v…
Khi lễ Phật phải hết lòng chăm chú cho tinh thành để quán xét, không đặng thô tháo. Lúc đi nhiễu Phật phải đi quanh về phía phải (tay mặt), nhiễu tháp cũng thế.
LỜI PHỤ. – Xưng Nam mô Phật: Ngày xưa, Phật còn tại thế có một người giòng Phạm chí tên Tu-bạt-đà-la 120 tuổi ở ngoài thành Câu-thi-na tu theo ngoại đạo, chứng được năm phép Thần thông, và đặng phép định “Phi phi tưởng” thông minh đa trí, nhưng chưa xả được cái lòng kiêu mạn. Bấy giờ, nghe Đức Phật nhập Niết-bàn lần đến thăm, nghe Phật thuyết pháp. Ông nhận rõ đặng lý đạo nhiệm mầu, liền chứng quả A-la-hán. Đây là một vị đệ tử sau rốt của Phật.
Nhắc lại khi ông Tu-bạt-đà-la xin vào hầu Phật, ngài A-nan không cho, Đức Phật xem biết ông này có căn lành tu hành trong nhiều kiếp lâu xa về trước, thường làm ông tiều đốn củi trên núi, cọp rượt, ông sợ hãi nhảy thót lên cây chỉ niệm một tiếng Nam mô Phật mà cũng chưa hết câu. Từ đó trải qua vô lượng kiếp cho đến ngày nay còn được gặp Phật độ cho.
Xem đây, thì sự niệm Phật hằng ngày của chúng ta nếu lòng thành không lui sụt thì chắc chắn được Phật độ và thành Phật không sai.
BÀI THỨ 42
NƠI VÁCH PHẬT ĐIỆN CHỚ DỰNG ĐỒ VẬT
Ngày xưa có một anh học trò vào chùa lễ Phật, đi giữa đường gặp ông thầy tướng bảo ngài có tướng Thiên tử, tôi sẽ gả con gái cho ngài.
Học trò đáp :
– Đợi tôi lễ Phật trở về.
Khi vào đến chùa, anh đem cây gậy dựng dựa vách tường Phật điện. Khi lễ xong, trở ra, ông thầy tướng không chịu gả con cho anh. Anh hỏi lý do … ông thầy tướng đáp :
– Vì quý tướng của ông đã mất rồi, công đức của ông cũng tiêu vậy.
Luận theo đây là vách Phật điện và tháp, chúng ta không nên dựng đồ vật, nếu không tin mà dựng, thì phạm giới, lại mất công đức v.v…
LỜI PHỤ.- Học giả: Cũng như học sinh.
Thiên tử: Con của trời, theo tục xưa, các nhà vua mới được gọi là Thiên tử. Theo lý trong Phật pháp vô tâm không phạm, nhưng học giả mất tướng Thiên tử vì có tâm kiêu mạn, không cung kính và đem gậy dựng dựa vào vách chùa, cho nên mới tổn phúc như thế.Xem đây thì mỗi khi ta vào điện Phật, phải cởi mở giày dép để ở ngoài, rồi vào. Thế là phước đức mới được đầy đủ.
BÀI THỨ 43
ĐÂM MÌNH ĐỂ CẦU PHÁP
Thuở xưa có người bình dân, sanh ra sau khi Phật nhập diệt mà cũng không có Tỳ-kheo Tăng để cầu pháp cho được, khóc lóc than thở… Khi đó, có người hàng xóm bảo: “Tôi biết được bài kệ ba giới”. Người bình dân nghe nói rất vui mừng, quỳ xuống khẩn cầu… Người hàng xóm bảo : “Phật pháp là Vô thượng, thế mà ông muốn nghe suông sao được ?”.
Người bình dân hỏi: “Vậy phải làm thế nào ?”
Người hàng xóm đáp: “Cứ mỗi lỗ chân lông thì đâm vào một cây kim, khi nào máu chảy ra như thác đổ, mà lòng không hối hận mới được”.
Người bình dân rất sung sướng nói : “Dầu cho tan nát thân này tôi cũng làm theo được huống chi còn sống ư ?!”.
Nói rồi, liền đi ngay ra chợ mua kim, đem về cứ mỗi chân lông đâm vào một cây kim, máu chảy ra như suối đổ. Người hàng xóm khen ngợi anh là người có chí, mới nói cho bài kệ như vầy :
Phải giữ lời và ý,
Thân không phạm điều ác,
Trừ được ba hạnh ấy,
Là thành bậc Thánh Hiền.
Người bình dân nghe xong rất đỗi vui mừng, liền đó thân thể bình phục lại như cũ. Người, Trời đều khen ngợi. Do đó, người ấy càng thêm tinh tấn trải qua nhiều kiếp không hề giải đãi, cho đến ngày nay thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
LỜI PHỤ. - Đâm thân ra máu để cầu Chánh pháp : Nghĩa là vì pháp quên mình, hơn nữa nhận thấy tứ đại này giả hợp vô thường chỉ cầu lấy cái Pháp thân thanh tịnh là thân Kim cang bất hoại.
Người bình dân: Là hạng người thường mà có tâm chánh tín. Đấy là tiền thân của Phật Thích Ca.
Phật ngày xưa đi cầu học Phật pháp rất khó khăn như thế. Còn ta ngày nay đã sẵn có giáo pháp của Ngài để lại, nếu ta biếng lười ngày sau phải chịu sa đọa. Cũng như cha mẹ để lại nghề nghiệp sanh nhai cho con cháu, mà con cháu không giữ gìn ắt phải chịu đói.
Tinh tấn: Cương quyết đi tới đích không hề lui sụt, và ghé hai bên (có, không). Trải qua nhiều kiếp, kiếp này rồi đến kiếp khác, không kiếp nào giải đãi. Còn sự tu học của chúng ta thì “nhứt bộc thập hàn” (Một ngày làm mười ngày nghỉ) ấy cũng là nghiệp giải đãi trong nhiều kiếp cho đến ngày nay, ngày nay nếu không cương quyết thì…, kéo mãi đến đời vị lai vô cùng tận!
BÀI THỨ 44
KỈNH PHÁP
Thân người khó được, pháp của Phật khó có nhân duyên mà nghe được. Người xưa một lời nói ra mà không giải quyết được thì dù trải qua muôn dặm cầu thầy để giải quyết. Sự nghe pháp khó khăn như thế xem đây đủ biết vậy.
Thế cho nên khi ta xem Kinh điển cũng phải xem như Phật không khác. Không nên cầm một tay nắm coi, không được cuốn tròn như hình cái ống. Không được tự ý đụng đâu để đó (bỏ bậy bạ); khi đọc Kinh, phải nghiêm trang yên tịnh, sửa sang áo mão, đốt hương, ngồi ngay thẳng không được dựa nương vách và bàn ghế mà nói cười v.v… không được thổi bụi trên Kinh bằng miệng, và khi người khác xem Kinh, ta không được đi ngang qua gần trước bàn. Kinh điển hư rách ta phải mau sửa sang lại. Khi tay mình cầm quyển Kinh, không được chào xá người.
LỜI PHỤ. - Phật pháp khó có nhân duyên được nghe là: Có khi ta muốn nghe mà không có người nói, khi có người nói thì ta lại bị bệnh hoạn không đi nghe được; có khi ta có sức khỏe mà người nói lại đau. Còn nhiều hoàn cảnh không thuận tiện khác nữa v.v…
Xem Kinh cũng như xem Phật: Vì Kinh là do lời vàng của Phật nói ra. Thổi bụi trên Kinh bằng miệng: Vì sợ hơi hôi trong miệng. Cầm cuốn Kinh xá người, có nghĩa là đem Phật xá người, thế thì có lỗi.(Còn nhiều oai nghi nữa, nên xem 24 oai nghi trong bộ Sa Di Luật Giải có nói rõ).
BÀI THỨ 45
GIỚI SÁT
(Cấm không được sát sanh)
Pháp luật của thế gian chỉ cấm giết người. Pháp luật của Phật không những thế, mà cấm giết tất cả: trên đến các Đức Phật, Thánh nhơn, Thầy, chúng Tăng và cha mẹ; dưới đến loài bò, bay, cựa, động như côn trùng nhỏ nhít. Tóm lại, hễ loài nào có mạng sống thì ta không được cố giết hại, mình giết hoặc bảo người giết hay thấy người giết mà sanh tâm tùy hỷ đều là phạm giới.
Kinh chép: Qua tháng mùa đông thường hay sanh rận. Vậy nên bắt nó bỏ vào trong ống tre, muốn cho nó ấm, thì lấy bông tơ, muốn cho nó sống thì dùng bông gòn thấm nước mồ hôi để nuôi nó tránh khỏi sự đói rét mà chết vậy. Hơn nữa: Cần phải lọc nước, che đèn và không nuôi những loại mèo, chồn v.v… đây là cái đạo từ bi vậy. Những loại nhỏ mọn còn giữ gìn như thế, đối với loài lớn nên xét biết vậy.
Than ôi! Chúng ta đâu nên không cẩn thận cho lắm ư?
LỜI PHỤ.- Sát sanh: Giết hại những loài có mạng sống. Vì loài nào cũng có thức tánh : biết ham sống, sợ chết như ta, nếu chúng ta giết (để ăn) tức là làm cho nó phải đau khổ, nghĩa là nó phải chịu những nỗi khổ vì phải xa lìa bà con, quyến thuộc của nó; so sánh như ta, thì biết loài vật cũng thế. Trong Kinh Phạm Võng nói: Sau khi đức Sĩ-đạt-ta thành Phật, Ngài dùng đạo nhãn xem khắp trong mười phương thế giới, thấy chúng sanh trong sáu đường đều là cha mẹ của Ngài. Ngài nói : Từ vô thỉ kiếp lại đây, Ta cùng với chúng sanh luân hồi trong sáu đường. Khi chúng sanh làm cha mẹ Ta, khi Ta làm cha mẹ chúng sanh, ngày nay Ta thành đạo rồi và muốn chúng sanh cũng được giải thoát như Ta, chỉ trừ những người không tin, Ta cũng không biết làm sao để độ họ !
Đức Phật vì lòng từ bi, vì yêu chuộng nghĩa tự do bình đẳng, nên dạy tất cả chúng sanh không nên sát hại lẫn nhau. Lại nữa, đứng về mặt nhân quả mà luận, hễ sát sanh thì gây nên nghiệp báo, oán thù thì phải trả vay. Thế nên, những người làm việc phước thiện, không những không sát sanh, mà còn phải thi hành hạnh phóng sanh. Vậy, trong những khi có lễ đám kỳ siêu, hoặc những ngày kỵ giỗ hay cưới gả v.v… ta cần phải tránh những việc sát sanh. Vì cưới gả mục đích cầu sanh con đẻ cháu, gia đình sung túc, quyến thuộc sum vầy, mà chúng ta lại sát sanh là trái với lẽ phải. Còn kỳ siêu, là muốn cho vong giả được siêu sanh Tịnh Độ mà lại giết chết mạng sống của loài sinh vật thì linh hồn của các loài vật quyết phải theo đòi trả quả. Đấy là cái định luật vay trả hiển nhiên vậy!
BÀI THỨ 46
GIỚI ĐẠO
(Cấm trộm cắp)
Phàm tài sản của người ta, người không cho, mình không đặng phép lấy, đến như vật nhỏ mọn : cây kim, ngọn cỏ cũng thế. Hoặc vật của Thường trụ, vật của tín thí, hay vật của chúng Tăng, hoặc của quan, của dân và của tất cả. Nếu không cho thì không được phép lấy. Hoặc trộm, cướp và dối gạt mà lấy, cho đến trốn thuế, dối đò v.v… đều khép vào một tội trộm cướp cả.
Trong Kinh chép: Xưa có ba thầy Sa-di : một thầy hái trộm bảy trái cây của Thường trụ, một thầy lấy trộm hai cái bánh của chúng Tăng và một thầy nữa ăn trộm một ít đường phèn của chúng Tăng cả ba đều phải đọa vào địa ngục.
Nên trong Kinh dạy: “Thà chịu chặt tay chớ không nên lấy của phi tài”. Than ôi! Chúng ta đâu nên không chừa bỏ ư?
LỜI PHỤ. - Vật của thường trụ có bốn:
1- Thường trụ thường trụ: Chúng Tăng có những vật như : Kho, lẫm, chùa, nhà, các món hoa quả rừng, ruộng, vườn, người ở làm công quả v.v… thuộc về thường trụ; chỗ này (chùa này) thì nhứt định để tại chỗ này, không được phép dời đi chỗ khác, cho nên nói vật của thường trụ đó, thì để cho thường trụ đó, nên gọi Thường trụ thường trụ.
2- Thập phương thường trụ: Như những vật cần dùng mỗi ngày, thí chủ cúng dường cho chúng Tăng mỗi ngày ăn dùng như lúa, gạo, cơm, nước v.v… mà trước kia đem để vào trong kho của thường trụ (chùa) đó, để làm món vật thực hằng ngày cho chúng Tăng ở đó ăn tu, của này tuy thuộc về của chúng Tăng trong mười phương. Nhưng, hễ có đến đó thì được phép cùng hưởng một cách như nhau, đến khi đi, thì không được mang xách theo, nên gọi là Thập phương thường trụ.
3- Hiện tiền hiện tiền: Là những vật sở hữu của mỗi thầy Tỳ-kheo như : Y, bát, Kinh, sách, mùng, mền, chiếu, gối v.v… đó là vật hiện tiền của chúng Tăng hiện tiền.
4- Thập phương hiện tiền: Nghĩa là những vật sở hữu của ông Tăng đó, nhưng ông Tăng đó đã qua đời, thời vật đó thuộc về của mười phương Tăng. Đến khi làm pháp Yết-ma để chia đồ rồi thì mỗi thầy Tỳ-kheo đều có thể chia lấy một trong những vật đó, nên gọi là vật của chúng Tăng hiện tiền (xem trong bộ Hành Sự Sao quyển nhứt có nói rõ).
BÀI THỨ 47
GIỚI DÂM
(Cấm dâm dục)
Người cư sĩ tại gia Phật cấm làm việc tà dâm, người xuất gia hoàn toàn đoạn tuyệt dâm dục, hễ phạm đến thân phần của kẻ nam người nữ trong đời đều gọi là phá giới.
Trong Kinh Lăng Nghiêm chép một đoạn : Có cô Tỳ-kheo-ni hiệu là Bảo Liên Hương, tự ý làm việc dâm dục rồi lại tự nghĩ : Làm việc dâm dục đây, đâu phải sát sanh, và cũng không phải trộm cắp, chắc không có tội báo gì. Nhân đó rồi nơi thân người cô tiết ra lửa dữ thiêu đốt thân cô, còn sống mà như đã sa vào địa ngục. Người đời cũng vì việc dâm dục đến nỗi hại mình và tan nát gia đình. Chúng ta là người xuất gia, làm ông thầy, xa lìa thế tục đâu nên trái phạm. Căn bản của con đường sanh tử thứ nhứt là việc dâm dục.
Cho nên trong Kinh đã dạy: “Dù cho dâm dục mà sống, không bằng trinh tiết mà chết”. Than ôi! Chúng ta đâu nên không cẩn thận lắm ư?
LỜI PHỤ.- Cư sĩ: Là người tu ở nhà (tại gia). Tà dâm: Là ngoài vợ chồng chánh thức, như trai có vợ, gái có chồng, thế mà còn ngoại tình với người khác…
Người xuất gia: Từ thọ Sa-di giới (giữ 10 giới) sắp lên gọi là Thế độ.
Thế độ: Thế phát (cạo tóc) độ cho đi xuất gia.
Không phải sát sanh và cũng không phải ăn trộm: Ý nói sát sanh là hại sanh mạng của loài người và vật. Trộm cắp là lấy trộm của người, còn dâm dục đâu có hại như thế ! Nhưng cô đâu có biết cái hại của sự dâm dục còn hơn trộm cướp và sát sanh, vì mất một kho tàng trí huệ. Nên phải sa vào hố địa ngục.
Địa ngục: Là nghĩa tối tăm, cũng là danh từ vô minh mà kêu có khác. Nói thân còn sống mà như sa vào địa ngục là vậy… Lửa dữ là lửa dâm dục. Người đời cũng vì việc dâm dục mà phải giết chết đời người, còn phải tan nát gia đình, như: Vua U, vua Kiệt, vua Trụ ngày xưa. Câu “Tuy dâm dục mà sống chẳng bằng trinh khiết mà chết” là câu thí dụ để đối lại câu “Nếu ta không dâm dục ta sẽ sống một cuộc đời trong sạch”.
BÀI THỨ 48
TRINH BẠCH MÀ CHẾT
Ngày xưa có một thầy Tỳ-kheo, tu ở trên núi, một hôm sai ông Sa-di xuống nhà người thường dân khất thực, gặp lúc thường dân kia cả nhà đều đi khỏi, chỉ để lại một thiếu nữ ở nhà. Thiếu nữ thấy ông Sa-di ấy, hình dung đẹp đẽ, bèn quỳ xuống cầu xin việc vừa lòng. Ông Sa-di thấy việc nguy khổn (với hạnh thanh tịnh của mình) liền vào trong phòng đóng cửa lại, cắn ngón tay lấy máu viết lên trên vách : “Ta thà bỏ mạng, chớ không phạm giới cấm của nhà Phật”. Viết xong liền thắt cổ mà chết. Việc này đồn thấu đến triều đình, ai nấy đều khen ngợi việc chưa từng thấy ! Nhà vua cho xe chở thây về kinh đô, đem những củi thơm lại để làm lễ trà tỳ và dựng tháp cúng dường.
LỜI PHỤ.- Trà tỳ: Là tiếng Ấn Độ, Hán dịch : Là Phần hóa, tức là thiêu. Câu “Ta thà bỏ mạng chớ không phạm giới cấm của Phật” là ý nói làm việc gì, phải đi cho đến mức cuối cùng không nên nửa chừng gặp hoàn cảnh trở lực rồi thối lui, cũng như cưa cây để lấy lửa, cưa chưa nóng đã thôi v.v… Đức Phật Thích Ca ngày xưa khi còn làm chúng sanh gây tạo nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý, phải đọa vào địa ngục Hỏa Xa, từ ấy Ngài phát tâm cương quyết đời nào cũng như đời nào, vẫn tinh tấn cho đến ngày thành Phật. Chúng ta ngày nay chưa có chi đã chán bỏ. Tạo nghiệp nhiều kiếp, mà bảo tu một lát cho thành thì làm sao được!
BÀI THỨ 49
GIỚI VỌNG NGỮ
Vọng ngữ có bốn cách :
1- Nói dối: Việc phải cho là quấy; cũng như việc quấy cho là phải; thấy nói chẳng thấy; chẳng thấy nói thấy v.v… (do lòng thương ghét không ngừng).
2- Nói thêu dệt: Thêm hay bớt cho lời lẽ được hay ho để gạt gẫm và hại người v.v… cho đến như văn chương diễn tả những khúc diễm tình đưa con người đi đến chỗ trụy lạc.
3- Nói lời hung ác: Lời nói thô tục, mắng nhiếc trù rủa và hỗn ẩu với người v.v…
4- Nói hai lời (lưỡi đôi điều) nghĩa là : Tới người này nó xấu người kia, tới người kia nói xấu người này, làm cho hai bên xa lìa sự ơn nghĩa và đâm thọc để cho hai người đấu chiến với nhau v.v… Nhẫn đến trước mặt người thì khen, sau lưng thì chê; trước mặt thời nói là phải, mà sau lưng lại nói là quấy. Dối làm chứng để buộc tội người (không sợ tổn đức) vạch bày lỗi của người, những hạng người như trên đều khép vào tội vọng ngữ cả.
LỜI PHỤ. - Vọng ngôn: Là nói dối;
Ỷ ngữ: Nói thêu dệt, chuyện ít xích cho nhiều, như chợ một vài ngàn người mà nói đông như kiến cỏ v.v…
Lưỡng thiệt: Là hai lời, như đòn xóc hai đầu, đâm đầu này thọc đầu kia, làm cho hai đàng ấu đả với nhau, để mình đứng giữa vui cười hay thủ lợi, như trong truyện Thuyết Đường ông Trình Giảo Kim khiêu khích cho La Thành đánh với Đơn Hùng Tín v.v… đến nỗi Đơn Hùng Tín phải chết về tay La Thành.Con người như thế thật đáng thương thay !
Ác khẩu : Là lời nói hung dữ, làm cho người ta ra sầu vào thảm, ngồi khóc đứng than v.v… lời tục thường gọi : một tiếng nói mà hư gia bại sản và cũng một tiếng nói mà ích quốc lợi dân, là nghĩa đây vậy.
BÀI THỨ 50
Phàm phu mà tự xưng mình là chứng quả Thánh, thế gọi là đại vọng ngữ, tội đó rất nặng. Còn như vì lòng từ bi, phương tiện để cứu người qua khỏi tai nạn gấp rút, thì không phạm.
Ngoài ra, tất cả trường hợp khác thì không được nói vọng. Kinh chép có một ông Sa-di chê cười một vị Tỳ-kheo già tụng Kinh như tiếng chó sủa; nhưng vị Tỳ-kheo già kia đã chứng quả A-la-hán, trái lại người còn thương xót liền dạy ông Sa-di phải mau mau sám hối. Sa-di kia khỏi đọa vào địa ngục, nhưng còn phải đọa làm thân chó. Đấy một câu nói ác mà phải chịu tai hại đến thế. Than ôi ! Chúng ta không dè dặt lắm ư !
LỜI PHỤ. - Phàm phu: Là người phàm tục, còn ở trong vòng sanh tử luân hồi.
Chứng Thánh: Là bậc đã thoát ra ngoài vòng phàm tục; tiếng như chó sủa là tiếng ồ ề không được thanh tao.
A-la-hán: Là bậc đã ra ngoài ba cõi (Dục, Sắc và Vô sắc giới), là bậc đã dứt hết luân hồi sanh tử.
Nói ác một câu mắc hại đến thế, thì ai cũng biết một lời nói dữ có thể làm chết mình được. Ông Sa-di chê cười là vì không nhận được giọng thanh với đục cũng chỉ là tương đối trong vòng sanh diệt thôi, cho nên còn chấp tiếng hay tiếng dở v.v…
BÀI THỨ 51
GIỚI TỬU
(Cấm uống rượu)
Rượu là thứ nước có chất kích thích, uống vào có thể làm say người. Khi uống say rồi, có thể phạm luôn ba mươi sáu điều tội lỗi, nên Phật cấm không cho uống rượu. Nếu như có bệnh nặng, không dùng rượu thì trị bệnh không lành, thời bạch (xin) trước với chúng Tăng, rồi mới được phép uống.
Còn không bệnh thời một giọt nhỏ cũng không được thấm nếm vào môi, ngửi vào mũi, cho đến không được vào đứng nơi quán bán rượu, và cũng không được đưa rượu cho người khác uống, nếu đưa ly rượu cho người khác uống, mắc quả báo cụt tay năm trăm đời. Huống chi mình uống ư ? Ngày xưa có một ông Ưu-bà-tắc do phá một giới rượu mà bao nhiêu giới khác đều phá luôn v.v…
Những người ham uống rượu, chết đọa vào địa ngục Phất-thỉ (nước tiểu tiện) ngu si nhiều đời, vì mất giống trí huệ. Rượu thiệt là một thứ thuốc dại mê hồn, độc hơn vị Phê-đam. Cho nên trong Kinh đã dạy : Thà uống nước đồng sôi mà chết, dè dặt chớ ham uống rượu. Than ôi ! Chúng ta đâu nên không răn chừa ư?
LỜI PHỤ. - Ba mươi sáu điều lỗi: Kinh Thiện Ác Sở Khởi nói: 1- Của cải bị tiêu tan. 2- Mắc nhiều chứng bệnh. 3- Ưa tranh đấu với người. 4- Tăng thêm sự giết hại. 5-Thêm nhiều sân hận. 6- Nhiều việc không toại ý. 7- Trí huệ giảm lần. 8- Phước đức không tăng. 9- Phước đức lần giảm. 10- Lộ bày các việc bí mật v.v… và v.v…
Ông Ưu-bà-tắc (Cư sĩ) nhân phá một giới rượu mà phá luôn các giới, như trong Tỳ Bà Sa Luận có nói rằng : Ngày xưa có một kẻ Cận sự nam tánh chất nhơn hiền, thọ trì năm giới, ròng chuyên giữ giới qua thời gian sau, có dịp đi xa về nhà, lúc về giữa đường, trời nắng quá khát nước, ghé lại nhà bên đường, cả nhà người đi vắng, anh ta vì khát nức nở, thấy rượu lầm cho là nước, liền múc uống, uống xong (phạm giới rượu), lúc say loạn, thấy gà hàng xóm tới, lại bắt giết mà ăn (thế đã phạm hai giới là giới đạo và giới sát). Bấy giờ, có cô gái hàng xóm đến tìm gà vào nhà, anh ấy lại cưỡng bức thông gian (thế là phạm thêm giới dâm). Lúc ấy, người trong xóm thưa quan, bắt anh đến, anh chối cãi không chịu (thế là anh phạm thêm tội vọng ngữ) cho đến ba mươi sáu lỗi (còn nhiều trong giới Sa Di Luật Giải có nói đủ).
Phê-đam: Phê là phê sương, là một thứ thuốc độc, tức là vị thạch tín; Đam là đam độc, là cái độc giết người được hay là đam tửu, là rượu độc, ngày xưa người ta lấy lông con công mà dầm rượu để làm thuốc độc. Hễ uống vô là chết liền lập tức, nhưng độc mà chỉ chết cái thân tứ đại này mà thôi. Còn rượu làm si mê mất trí huệ, nên phải sa đọa đến nhiều kiếp…
Nước đồng sôi: Là đồng nấu chảy ra nước sôi sùng sục cũng như dầu thắng đang sôi, mà bưng rót vào miệng thì nóng biết bao. Đây, nói thà là uống nước đồng sôi chớ không phạm giới, là lời cương quyết giữ giới, giữ giới tức là giữ trí huệ…
BÀI THỨ 52
GIỚI ĐEO TRÀNG HƯƠNG HOA VÀ LẤY BỘT HƯƠNG XOA VÀO MÌNH
Tràng hương hoa là người bên nước Tây Vức (Ấn Độ) xỏ xâu các thứ hoa thơm làm thành tràng, để trang sức trên đầu. Còn cõi này (Trung Hoa) thì dùng các thứ lụa, nhung, vàng, ngọc, để chế tạo trang sức những loại áo mão vậy. Lấy bột hương xoa vào mình là người bên xứ Tây Vức những người sang, hay dùng các thứ danh hương nghiền thành bột, rồi sai trẻ thanh y xoa vào mình. Còn ở cõi này (Trung Hoa) thì dùng các thứ hương đeo, hương sáp, và những loại son phấn ấy vậy. Nhưng chúng ta là người xuất gia, đâu nên dùng các thứ ấy.
LỜI PHỤ. - Danh hương: Là những thứ hương tốt có danh tiếng.
Thanh y: Là những người hầu hạ cho mặc áo xanh.
BÀI THỨ 53
Đức Phật chế ra ba y, đều dùng những thứ vải gai thưa xấu. Còn những thứ lông thú miệng tằm, đã hại loài sanh mạng, lại tổn thương tâm từ bi, chẳng phải đồ của người xuất gia nên dùng vậy. Chỉ trừ cho những người tuổi đến bảy mươi, già yếu quá đỗi nếu không dùng lụa thì không thể ấm được, thì tạm cho dùng, còn ngoài ra, người chưa đến tuổi ấy, đều chẳng dùng. Kìa như vua Võ nhà Hạ mặc áo xấu; ông Công Tôn đắp mền vải, đó là bậc vương thần tôn quý (cao sang) việc đáng làm mà không làm, lẽ nào người hành đạo trở ham trang sức! Nên dùng đồ hoại sắc làm áo mặc, chầm vá che thân, việc đó nên làm vậy.
Ngày xưa có một vị cao Tăng, trong ba mươi năm mà chỉ mang có một đôi giày gai, huống chi ta là hạng phàm phu? Than ôi! Chúng ta đâu chẳng khá răn chừa vậy ư?
LỜI PHỤ. - Ba y: Là y 5 điều, y 7 điều và y 25 điều.
Hạ Võ là vua đời nhà Hạ ở nước Trung Hoa là một nhà vua nhân từ biết thương dân chúng.
Công Tôn: Là ông Công Tôn Hoằng, một vị Đại thần rất tột bậc thanh liêm.
Y hoại sắc: Là cái y nhuộm không thành màu sắc gì, nghĩa là không thành màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen; mà là trộn lẫn cả lại mà nhuộm, để khác với cái màu sắc của người trong thế gian thường mặc.
Cao Tăng: Là những vị Tăng đạo cao, đức trọng, tức như đời Đường, ngài Huệ Hưu Pháp sư vậy. Ba mươi năm, mang một đôi giày, khi gặp chỗ mềm thì đi chân không. Có người hỏi? - Ngài nói: Của tín thí khó tiêu, ngày nay ta cũng đáng tàm qúy. Thí chủ không đem tới thì trông, còn đem hoài ta lại sung sướng đó, đều là cái nợ của tín thí nan tiêu, mà ta đâu có biết ! … Như đời Đường, ngài Thông Huệ Thiền sư sau khi ngài đại ngộ (tỏ ngộ lý đạo Đại thừa) tuổi đã già, mà chỉ có một quần, một mền, một đôi giày đan bằng gai, trải qua hai mươi năm, áo vải chầm vá nhiều lớp từ mùa Đông đến mùa Hạ vẫn mặc có một cái. Ngài Tả Khê Tôn giả chỉ có một y bảy điều mãi đến hơn bốn mươi năm, một cái Ni-sư-đàn (đồ lót để ngồi, hoặc nằm) trọn đời không thay cái mới, khi rửa bát bầy khỉ giành bưng, lúc tụng Kinh thì loài chim sè cánh che cho mát, các bậc cao Tăng đại đức như vậy chẳng phải Thánh thì cũng bậc Hiền, còn biết xét mình chọn chỗ chắc thật như thế ! Huống chi chúng ta là kẻ phàm mà không dè dặt thân tâm để tích công bồi đức hay sao?
BÀI THỨ 54
GIỚI (CẤM) CA MÚA ĐÀN HÁT VÀ ĐI XEM NGHE
Ca, là từ trong miệng nói ra lời ca. Múa, là thân đứng ra làm trò múa giỡn. Đờn địch : Những loại đờn cầm, đờn sắc, ống tiêu, ống quản ấy vậy. Chẳng đặng mình làm cũng chẳng đặng khi người làm cố ý đi xem nghe.
Ngày xưa, có một đoàn tiên nhơn (người tiên) do nghe tiếng ca của bọn cung nữ (cung phi mỹ nữ) tiếng tăm dịu dàng liền mất Thần túc thông.
Xem nghe còn phải hại như thế, huống chi mình làm ? Đời này có hạng người ngu, nhân thấy trong Kinh Pháp Hoa có câu Tỳ bà nảo-bạt, rồi mặc lòng học theo nghề âm nhạc. Song trong Kinh ấy nói là để cúng dường các Đức Phật, chớ không phải để cho mình vui chơi. Nhẫn đến không đánh cờ vây, cờ lục bát, đánh đầu trịch, đánh xu bồ, các việc cờ bạc v.v… đều là làm loạn đạo tâm và tăng thêm tội lỗi. Than ôi ! Chúng ta đâu chẳng răn dè ư ?
LỜI PHỤ. - Thần túc thông: Là đi bằng Thần thông, (đi cách nhẹ nhàng như bay.) Ngày xưa, có ông vua Chất-đà-diễn-na đem toàn những cung nữ đến non Thủy tích, lõa hình múa hát, tấu lên năm món âm nhạc, tiếng tăm vừa thanh vừa dịu, mùi hương bát ngát. Khi đó, năm trăm người tiên, vừa vận Thần thông bay qua, ông thì thấy sắc, ông thì nghe tiếng, ông thì ngửi mùi hương, tất cả đều đứt Thần thông, đồng thời sa xuống như chim gãy cánh v.v…
Đánh nhạc cúng Phật là các vị chư Thiên, các vị Thần âm nhạc, các hàng Cư sĩ tấu nhạc để cúng dường chư Phật, để tỏ lòng thành của các vị ấy cúng Phật. Hơn nữa, những nghề hay khéo, và những vật sở hữu của các vị đó là âm nhạc; ngoài ra, thì các vị không có chi nữa để mà cúng Phật, nên Đức Phật cũng chứng cho lòng chí thành của các vị ấy, thật ra nghề âm nhạc không phải để cho người xuất gia học tập.
BÀI THỨ 55
GIỚI (CẤM) NGỒI GIƯỜNG CAO RỘNG LỚN
Phật chế thứ giường bện bằng dây, cao không quá tám ngón tay của Đức Như Lai, nếu quá thì phạm, cho đến những loại giường có sơn thếp, chạm trổ và màn nệm bằng các thứ tơ lụa v.v… cũng chẳng nên dùng.
Người xưa dùng cỏ làm tòa ngồi, ngủ dưới gốc cây, ngày nay đã có giường chõng, cũng đã hơn nhiều. Vì sao lại còn muốn cao rộng, để buông lung xác thân huyễn hóa này? Kia như ngài Hiếp Tôn giả một đời lưng chẳng bén chiếu ! Ngài Cao Phong Diệu Thiền sư lập nguyện ba năm không nương giường ghế! Ngài Ngộ Đạt đắm nhiễm cái pháp tòa bằng trầm hương của vua cúng dường còn phải tổn phước mà mắc quả báo.
Than ôi! Chúng ta đâu chẳng cẩn thận lắm ư?
LỜI PHỤ. - Giường dây: Lấy cỏ, gai, mây v.v… bện thành, chân có cong và ngay, hoặc giường dây, hoặc giường bằng cây, nhưng quá cái lượng tám ngón tay của Đức Như Lai thì phạm. Tay của Đức Như Lai một ngón rộng hai tấc, tám ngón là một thước sáu tấc, lấy theo thước đời nhà Châu (Châu Chiêu Vương).
Lưng không bén chiếu: Nghĩa là không đặt lưng xuống chiếu và không nương dựa giường ghế, là nói hạnh tu của các ngài rất kham khổ mà tinh tấn.
Ngài Ngộ Đạt : Tức là ngài Tri Huyền Pháp sư đời nhà Đường, con nhà họ Trần, tu giới định huệ tinh nghiêm nổi danh một thuở, mười bốn tuổi biết làm thi. Vua Hiến Tôn ban cho bảo tọa bằng trầm hương cao hơn một trượng, vua Hy Tôn phong hiệu là Ngộ Đạt Quốc sư, hai vua yêu đãi quá trọng.
Nhắc lại tiền thân của ngài là Viên Án đại thần của vua đời nhà Hán, tâu vua chém tên Triệu Thố nơi Đông thị. “Huyền” mười đời xuất gia tu làm vị Cao tăng. “Thố” theo dõi để trả thù đời trước, nhưng Huyền tu đức hạnh đầy đủ, Thố trả báo không được, nhân một hôm vua cúng dường pháp tòa bằng trầm hương, giữa chúng hội quá ư cao sang, Huyền có chút tâm móng về danh lợi, đối với phước có tổn, thừa dịp Triệu Thố nhập vào đầu gối của Huyền làm thành mụt ghẻ độc, trên mặt mụt ghẻ có hiện hai chữ Triệu Thố v.v… trong “Bổn truyện và Sa Di Luật Giải” có giải rõ.
Xem sự tích này thì chúng ta đủ biết người tu mà còn tham danh lợi rất là có hại.
BÀI THỨ 56
GIỚI (CẤM) ĂN PHI THỜI
Phi thời là gì? – Là quá giờ ngọ, chẳng phải thời chúng Tăng ăn vậy. Chư Thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, loài súc sanh ăn sau giờ ngọ, loài quỷ ăn ban đêm. Ông Tăng phải học theo hạnh của Phật, quá giờ ngọ đừng ăn. Bởi loài ngạ quỷ nghe tiếng bát, đọi; thời trong cổ, lửa đói khởi lên, cho nên ăn giờ ngọ còn phải vắng lặng, huống chi quá giờ ngọ ư?
Ngày xưa có vị cao Tăng, nghe ông Tăng ở phòng gần sau giờ ngọ, nổi bếp nấu, bùi ngùi rơi lụy, vì thương Phật pháp sắp suy tàn vậy!
Người đời nay vóc yếu, nhiều bệnh, thường thường muốn ăn hoài, hoặc không thể giữ được giới này, cho nên bậc Cổ nhân nói bữa ăn chiều là vị thuốc hay, là cái ý để chữa lành chứng bệnh vậy. Đành rằng như thế, nhưng cũng biết trái lời Phật dạy, rất sanh tâm hổ thẹn, nghĩ thương sự khổ của loài ngạ quỷ, nên thường làm việc cứu giúp, chẳng ăn nhiều, chẳng ăn ngon, chẳng yên lòng mà ăn, thì họa may mới có thể được. Còn hoặc chưa được như vậy, thì mắc tội rất nặng. Ôi! Khá chẳng răn chừa ư?
LỜI PHỤ. - Nhựt ngọ (giờ ngọ): Giờ ngọ là nói theo phương này, nếu y theo luật, thì nói là nhựt trung (lúc mặt trời đứng bóng). Nghe tiếng chén bát trong cổ khởi ửa đây là do người khi còn sống xan tham (bỏn sẻn) lúc chết đọa trong loài Ngạ quỷ, cổ nhỏ như cây kim, bụng to như cái trống, thường bị đói khát ép ngặt, nếu nghe tiếng chén bát khua, thời trong cổ phát ra lửa đỏ mà tự thiêu đốt lấy mình.
BÀI THỨ 57
GIỚI (CẤM) CẦM GIỮ SANH TƯỢNG VÀNG BẠC VẬT BÁU
Chữ Sanh tức là vàng. Chữ Tượng là giống – giống như vàng, nhưng nó là bạc vậy. Nghĩa là vàng bản chất nó tự sanh ra màu vàng. Còn bạc nếu đem nhuộm vàng, thì cũng giống như vàng vậy (nhưng mạ vàng).
Chữ Bảo, là loại thất bảo… các món nói trên, đều là nuôi lớn tham tâm, ngăn bỏ đạo nghiệp. Khi Đức Phật còn ở đời, Tăng chúng đều đi khất thực, không sắm bếp để nấu, còn áo mặc, phòng nhà đều nhờ ngoại duyên giúp đỡ (thí chủ hộ cho), như thế vàng bạc ta để cũng không dùng vào đâu.
Nắm cầm còn cấm, thì những kẻ thanh liêm khá tự biết vậy! Cuốc đất gặp vàng không thèm ngó lại, đó là kẻ thế Nho còn như thế, huống chi trang Thích tử xưng là bần Tăng, mà còn cất chứa tiền bạc để làm gì?
LỜI PHỤ. – Vàng bạc: Là một vật có tên mà không có nghĩa.
Thất bảo: Vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, xa cừ, mã não, trân châu, và bao nhiêu san hô, hổ phách, nhựt châu, nguyệt châu, ma ni châu v.v… đều là loại thất bảo vậy.
Kẻ thế Nho là: Đời nhà Hán, ông Quảng Ninh người ở quận Bắc Hải. Lúc trẻ, cùng làm bạn với Hoa Hâm, một hôm hai người cùng nhau cuốc đất trồng rau, khi cuốc lên, xem thấy dưới đất có vàng. Quảng Ninh vác cuốc bỏ đi nơi khác không ngó đến, Hoa Hâm đến lượm lên xem, rồi cũng ném đi, trông những mảnh vàng kia cũng như ngói, gạch.
BÀI THỨ 58 (tiếp theo)
Người tu đời nay không thể đều đi khất thực, có người vào chốn Tòng lâm, có người ở nơi am viện, có người đi phương xa, thế cũng không khỏi sự hao phí về tiền bạc. Như vậy, phải biết trái lời Phật dạy, mà sanh tâm hổ thẹn và phải luôn luôn nghĩ đến những người nghèo thiếu, mà thường làm việc bố thí, đừng kinh doanh, đừng chứa để, đừng buôn bán và cũng đừng lấy đồ thất bảo để trang sức áo mão và các vật khác… ngõ hầu mới tránh khỏi. Nếu không được như thế, mắc tội rất nặng.
Than ôi! Chúng ta đâu không cẩn thận lắm ư?
LỜI PHỤ. - Không đều đi khất thực: Vì cũng có vị ở tại chùa làm đạo, dịch Kinh, giảng giáo v.v… Có vị đi tu học phương xa, thì lẽ cố nhiên phải tốn phí tiền bạc. Đã biết trái với lời Phật dạy, thì phải biết tiết kiệm, đừng làm việc phi pháp… Hơn nữa, thời kỳ Phật còn tại thế, nhằm thời gió hòa mưa thuận, nhân dân (thiện tín) được rảnh rang mua bán dồi dào, mỗi khi gặp Phật và chúng Tăng đi đều có các Cư sĩ hộ pháp đi theo để cấp hộ… Về sau, Phật pháp truyền sang Trung Hoa và nước Việt Nam ta, thì các vị thiện tín phải lo việc gia đình, quốc gia và xã hội không được rảnh rang, vì nạn chiến tranh, nên chỉ dâng cúng một ít vào chùa để cho chúng Tăng tự tiện nấu ăn tu hành.
Nếu như đi đâu có những vị Cư sĩ đi theo, thì những vị (Cư sĩ) ấy giữ tiền để phòng khi đi xe, đò, tàu như thế phải tốn phí bằng hai mà lại mất thì giờ nữa, nên quý vị ấy chỉ giao tiền cho các Sư tự tiện trả lấy thôi. Ngày nay, các nước Phật giáo trên thế giới như Ấn, Miến, Xiêm, Lào và Cao Miên trên còn nhờ vua tận tâm ủng hộ, tạo lập chùa chiền, dưới tín đồ hết lòng giúp đỡ chúng Tăng khỏi phải cày sâu, lam lũ hằng ngày, nên sự tu hành còn hơi giống như xưa.
BÀI THỨ 59
TỨ QUẢ A LA HÁN
Bốn quả: 1- Sơ quả: Quả vị ban đầu, Tu-đà-hoàn. Hán dịch: Dự lưu, vị này mới bắt đầu dự vào giòng Thánh.
2- Nhị quả: Quả thứ hai, Tư-đà-hàm. Hán dịch : Nhứt lai, vị này còn sanh trở lại trong cõi Dục này một lần nữa.
3- Tam quả: Quả thứ ba, A-na-hàm. Hán dịch : Bất lai, vị này không còn sanh trở lại trong cõi Dục này nữa.
4- Tứ quả: Quả thứ tư, A-la-hán. Hán dịch : Bất sanh hay Vô sanh, vị này ra khỏi ba cõi (Dục, Sắc và Vô sắc).
Sơ quả, cũng như kẻ đi đường, nhưng chân bước đi cách đất năm tấc, khỏi hại loài trùng kiến, còn ba quả kia tự xét biết…
LỜI PHỤ. - Sơ quả: Gọi là Dự lưu hay Nghịch lưu. Dự lưu là dự vào giòng Thánh, còn Nghịch lưu là ngược lại dòng sanh tử của phàm phu. Vị này đã đoạn hết Kiến hoặc trong ba cõi, Kiến hoặc: là sự thấy và hiểu biết sai lầm; ba cõi: là Dục, Sắc và Vô Sắc.
Nhị quả, dịch: Nhứt lai, vị này tuy đoạn được chín món Tư hoặc ở cõi Dục, nhưng chỉ đoạn được sáu món trước, ba món sau vẫn còn. Vì ba món sau vẫn còn nên phải sanh trở lại cõi nhân gian (cõi Dục) một lần nữa.
Tam quả, dịch: Bất lai, vị này chẳng những sáu món hoặc trước đoạn hết mà cả ba món sau đồng thời đoạn hẳn nên không còn sanh lại cõi Dục nữa. Nhưng còn sanh vào cõi Sắc và Vô sắc.
Tứ quả, dịch: Sát tặc, Ứng cúng và Vô sanh (ba nghĩa). Vị này đã đoạn hẳn Kiến hoặc và Tư hoặc trong ba cõi. Vì Kiến, Tư hai hoặc đã đoạn, nên gọi quả này là “Sát tặc” (giết giặc phiền não). Quả này là cùng tột trong bốn quả của Thanh-văn thừa (Tiểu thừa giáo), bậc này đáng thọ của người và trời cúng dường nên gọi là “Ứng cúng”. Vị này quả báo đã hết và chứng vào Niết-bàn vĩnh viễn nên gọi là “Vô sanh” vì không còn sanh tử luân hồi trong ba cõi nữa.
BÀI THỨ 60
MƯỜI HAI HẠNH ĐẦU ĐÀ
Tiếng Phạm nói Đầu-đà cũng nói Đỗ-đa. Tiếng Trung Hoa gọi là Đẩu tẩu, nghĩa là phủi giũ tất cả phiền não nghiệp chướng.
Mười hai hạnh Đầu-đà :
1. Thường đi khất thực.
2. Ở chỗ vắng vẻ (A-lan-nhã)
3. Theo thứ lớp đi khất thực (không lựa giàu nghèo).
4. Đúng như pháp mỗi ngày ăn một bữa.
5. Ăn cho có chừng đỗi.
6. Quá giờ ngọ không ăn.
7. Mặc cái y chầm vá.
8. Chỉ sắm ba y.
9. Thường ở những chỗ gò mả(mồ hoang).
10. Ngồi nơi gốc cây.
11. Ngồi giữa đất trống.
12. Ngồi nhiều nằm ít.
LỜI PHỤ. - Ba y: Y năm điều, y bảy điều và y hai mươi lăm điều. Ở chỗ gò mả: Là để tu tập theo pháp quán Bất tịnh và theo pháp quán Vô thường.
Y chầm vá: Là y bá nạp, nghĩa là những vải vụn người ta bỏ, đem về giặt sạch rồi chầm lại làm y bá nạp, để che thân làm việc đạo và cũng là một hạnh diệt trừ cái chấp ngã (ta) để lần đi đến quả vị Vô ngã. Ăn có chừng đỗi là : vừa đủ ăn mặc không thọ quá nhiều. Mùa tu hạnh Đầu-đà; mùa Đông, mùa Hạ ngồi thiền kiết hạ an cư, thường dùng mười tám món : ba y, bình bát, tọa cụ, tích trượng, lư hương, bọc lượt nước, khăn tay, dao cạo, ống quẹt, nhành dương (tăm xỉa răng), xà bông, giường dây (võng), Kinh luật, tượng Phật và tượng Bồ-tát. Trong Luật dạy mười ba món vật dụng của thầy Tỳ-kheo, hay mười tám món là đời sau các Tổ chế thêm. Khi đi Đầu-đà đến trăm ngàn dặm thì mười tám món này phải mang theo cho đủ. Thời gian đi hạnh Đầu-đà: từ Rằm tháng Giêng đến Rằm tháng Ba; Rằm tháng Tám đến Rằm tháng Mười. Trong hai khoảng thời gian ấy, mười tám món này phải đem theo bên mình như chim có hai cánh. Trong hàng đệ tử của Phật, có ngài Đại Ca-diếp tu hạnh Đầu-đà thứ nhứt.
BÀI THỨ 61
VĂN THÙ, DI LẶC, BA THÂN, NĂM CĂN, NĂM LỰC
Văn-thù-sư-lợi là tiếng Phạm. Hán dịch: Diệu Cát Tường, vì ngài là bậc trí huệ rộng lớn cho nên gọi là Đại Trí Văn Thù.
Di-lặc. Họ Từ. Tên A-dật-đa. Hán dịch: Vô Năng Thắng.
Ba thân: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
Năm căn, Năm lực: Tín, tấn, niệm, định và huệ.
LỜI PHỤ. - Văn-thù: Là một vị đệ tử lớn của Phật về hàng Bồ-tát, ngài là bậc Thượng thủ, trí huệ đệ nhứt.
Di-lặc: Là vị Bồ-tát cực quả về ngôi Đẳng giác, hiện ở nội viện cung trời Đâu Suất, sẽ được làm Phật kế ngôi Giáo chủ Đức Bổn Sư Thích Ca tại cõi Ta-bà này. Ngài là họ Từ, vì vị Bồ-tát này sanh trong nhà họ Từ, lấy theo họ mà đặt tên là Từ Thị. Xưa nói Từ Thị có hai nhân duyên: 1- Gặp được Đức Từ Phật mà phát tâm. 2- Tu chứng đặng pháp Từ tâm Tam muội (Tam muội là chánh định). Và cũng gọi là Từ Vô Năng Thắng, (nghĩa là lòng từ không ai hơn).
Đức Phật Di Lặc ra đời nhằm kiếp hiện tại, vị Phật thứ năm, kế Đức Phật Bổn Sư Thích Ca của chúng ta vậy. Ngài thuyết pháp trong ba hội. Trong Kinh Di Lặc Đại Thành Phật nói: Khi đó, Đức Di Lặc xuất gia học đạo, ngồi dưới gốc cây trang nghiêm đạo tràng, trong ngày ấy, đầu hôm Ngài hàng phục (trừ dẹp) được bốn ma (Phiền não ma, ngũ ấm ma, tử ma và thiên ma (ma Ba tuần), chứng được quả Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, có vị Đế Thích Đề Hoàn Nhơn, Hộ Thế Thiên vương và có vô số các vị Thiên tử đến nơi vườn Huê Lâm, đầu diện lễ bái dưới chân Phật, chắp tay khuyến thỉnh Ngài chuyển pháp luân, khi đó Đức Phật Di Lặc nhận lời thỉnh (bằng cách làm thinh). Trong khi thuyết pháp hội ban đầu có 96 ức người chẳng còn bị các pháp buộc ràng, lậu tận ý thông, chứng đặng quả A-la-hán, và đặng pháp Tam minh, pháp Lục thông và có 36 vạn vị Thiên tử, 20 vạn vị Thiên nữ phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng Chánh giác. Đại hội thứ hai : Bấy giờ, ở cõi Nam Diêm-phù-đề, các thành ấp tụ lạc, các vị Tiểu vương, các bậc Trưởng giả và cả trong bốn họ. Tất cả đều đi đến vườn Huê Lâm, dưới cây đạo tràng Long Hoa. Khi đó Đức Phật thuyết lại những pháp Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt và Đạo, pháp Thập nhị nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức v.v… có 94 ức người đắc quả A-la-hán. Thuyết pháp Đại hội lần thứ ba: Thì có 92 ức người chứng quả A-la-hán và cũng có 34 ức vị Thiên Long Bát bộ, đều phát tâm Bồ-đề Chánh đẳng Chánh giác (Trong quyển Pháp Hoa Nghĩa Sớ có giải rõ).
Sở dĩ Đức Di Lặc thuyết pháp có phân làm ba hội ấy, là ý Ngài để độ chúng sanh nào v.v… có thượng trung hạ ba căn lành mà Đức Phật Thích Ca độ còn thừa lại, nghĩa là chúng sanh ấy đối với khi Đức Phật Thích Ca ra đời đã có giữ gìn năm giới, thì hội đầu tiên được đắc đạo; còn người thọ trì Tam quy thì hội thứ hai mới đắc đạo; còn những người xưng hiệu Phật một tiếng Nam mô Phật thì qua Đại hội thuyết pháp lần thứ ba mới đắc đạo quả.
Pháp thân: Cái thân thanh tịnh cùng khắp pháp giới.
Báo thân: Cái thân viên mãn cùng khắp pháp giới.
Ứng thân: Cái thân do sự sanh đẻ, cho nên cũng gọi là Sanh thân v.v…
Ngũ căn: Mà tu tăng thượng đắc lực, thì gọi là Ngũ lực, Ví như Tín căn, là tự mình tin sâu, gọi là tự lợi, chẳng những tin sâu một mình mà lại còn dạy kẻ khác tin sâu, là lợi tha vậy, cũng gọi là tăng thượng đắc lực …
BÀI THỨ 62
NHỊ THỪA, HỮU HỌC VÀ VÔ HỌC
Nhị thừa: 1- Thanh-văn thừa (A-la-hán) bậc này nghe tiếng tăm thuyết pháp của Phật mà ngộ đạo.
2- Duyên-giác thừa (Bích-chi-Phật) bậc này quán xét mười hai nhân duyên mà ngộ đạo. Hữu học là gì ? Bậc Sơ quả, Nhị quả, Tam quả A-na-hàm còn phải học tập (vì chưa hết hoặc). Thế nào là Vô học ? Tức là bậc Tứ quả của A-la-hán và Bích-chi-Phật không còn phải học nữa, (vì những hoặc, nghiệp đã dứt sạch, nên không còn luân hồi nữa).
LỜI PHỤ. - Nhị thừa hai bậc (Thanh-văn và Duyên-giác) hai bậc này còn phải học, cũng như còn phải tu tập, còn phải tiến lên. Vô học cũng như Vô lậu : không còn ô nhiễm, cũng gọi là Vô sanh, nghĩa là không còn luân hồi sanh trở lại trong ba cõi: Dục, Sắc và Vô sắc.
Mười hai nhân duyên: 1) Vô minh Duyên hành, 2) Hành duyên Thức, 3) Thức duyên Danh sắc, 4) Danh sắc duyên Lục nhập v.v… đều là những pháp do nhiều duyên hòa hợp, không thật thể, vô thường giả dối, nhận được nó là pháp như huyễn, tức đạo lý chơn thật tự nhiên tỏ bày.
Bích-chi-Phật: Dịch Duyên-giác, vì quán mười hai pháp nhân duyên mà được giác ngộ. Ngoài ra, cũng còn bậc Độc-giác, bậc này không gặp Phật ra đời, không được nghe tiếng Phật thuyết pháp, mà tự mình quán mười hai pháp nhân duyên giả hợp, như chiêm bao, như bọt nước mà ngộ đạo, nên gọi quả Độc-giác...
A-la-hán: Dịch Vô sanh, vì không còn sanh trở lại trong ba cõi này nữa, như trên đã nói. Nghĩa là hết luân hồi sanh tử.
BÀI THỨ 63
CHÁNH TRI KIẾN
Chúng ta học Phật, nhứt là chỗ hiểu biết và thấy cho chánh đáng, sự hiểu biết và thấy không chánh đáng, thì dầu cho sự tu hành chơn chánh đến đâu, rốt cuộc cũng trở về ma đạo. Nên nay đem ra những việc tà, chánh, phân biệt như sau, để hầu mong tránh cái nạn hiểu lầm.
A.- Hiểu biết và thấy theo lối tà có hai mươi điều kiện như sau:
1- Xem tướng đoán số mạng, 2- Rút xâm coi quẻ, 3- Cầm cơ thả chim loan, 4- Coi sao cúng hạn, 5- Bói đất lựa chỗ tốt, 6- Bái thần thờ quỷ, 7- Luyện khí xuất thần, 8- Luyện đơn uống để được trường sanh bất tử, 9- Tin lý tự nhiên ở nơi mạng trời, 10- Nói giàu sang do số mạng, 11- Cho là thượng đế tạo ra muôn vật, 12- Tin số mạng ở trời, 13- Chấp cho thế gian thường trú, 14- Chấp cho chết rồi là mất hẳn, 15- Xem cảnh cuộc lợi hại, 16- Mê tín quỷ thần yêu quái, 17- Truyền nước thơm (nước thánh), 18- Bắt cầu lên thiên đường, 19- Tống bè dời bếp, 20- Tin vẽ bùa ếm đối. Hai mươi điều nói trên do những người tà tri kiến, cũng như nói người mê tín theo lối tà ma ngoại đạo.
B.- Chánh tri kiến, cũng như những kẻ chánh tín kia; nhận biết tất cả sự vật trong thế gian là vô thường, đều do nhân duyên giả hợp, hết thảy trong ba cõi, chỉ có cái tâm là ông chủ tể tạo ra muôn vật và muôn pháp giữa này chỉ có một cái thức biến hiện ra mà thôi vậy.
LỜI PHỤ. - Câu “Dù tu hành cho mấy rốt cuộc cũng thành ma nghiệp”: Là ý nói cái thân tuy làm việc đạo; mà cái tâm đạo không thật làm, cũng như con trâu kéo cày nhưng cái nghiệp trâu chưa hết, thì dầu có kéo đến đâu, rốt cuộc cũng hoài công vô ích.
Chim loan: Các phù thủy hồi xưa vẽ hình chim loan để cúng thần, cũng nói là đồ thế. Ngày nay các thợ mã bện những con bù nhìn, nhà minh khí, đồ thế v.v… là di truyền của sự mê tín ngày xưa.
BÀI THỨ 64
CHÁNH TƯ DUY
Tư duy tức là Tư tưởng. Chúng ta học Phật, tư tưởng nếu không chánh đáng; dù cho thông minh đến đâu, tất cũng phải sa về đường ác. Lời nói đây đúng hay không đúng sẽ rõ ở sau, để mà tư duy cho chánh đáng. Chánh tư duy : Là suy nghĩ chơn chánh, suy nghĩ chơn chánh có chia ra mười điều như sau :
1. Đói, suy nghĩ việc ăn.
2. Lạnh, suy nghĩ việc mặc.
3. Bệnh, suy nghĩ việc trị.
4. Nghèo, suy nghĩ việc giúp đỡ.
5. Khổ, suy nghĩ việc cứu độ.
6. Phật, suy nghĩ được thành
7. Đạo, suy nghĩ phải tu hành.
8. Phiền não, suy nghĩ phải đoạn trừ.
9. Oán thù, suy nghĩ phải cởi mở.
10. Nghiệp chướng, suy nghĩ phải dứt sạch.
Đấy là mười món Chánh tư duy nên làm, trái lại mười món trên là Tà tư duy, không nên làm, kể ra như sau :
Suy nghĩ của cải, sắc đẹp, tiếng khen và miếng ăn ngon
Suy nghĩ thăng quan, phát tài.
Suy nghĩ con cháu được giàu sang.
Suy nghĩ buông lung để hiếp đáp người. 1. Suy nghĩ cần chức quyền hơn người. 2. Suy nghĩ cho kẻ nam người nữ tiếp xúc nhau. 3. Suy nghĩ tìm cách trốn tránh cho yên thân. 4. Suy nghĩ tìm cách để trả cựu thù. 5. Suy nghĩ tìm cách để dua nịnh với nhà giàu sang. 6. Suy nghĩ học đàn hát ca xướng cho vui chơi. Mười điều suy nghĩ này là tà vạy, ta không nên làm.
LỜI PHỤ.- Trong Khế Kinh, Đức Phật thường dạy: “Các đệ tử muốn cúng dường ta, thì dùng tâm Chánh tư duy đó, tức là cúng dường ta”. Ý nói: Phật là bậc chơn chánh, mình phải lấy sự chơn chánh mà cúng dường Ngài, mới là nhằm pháp.
BÀI THỨ 65
CHÁNH NGỮ
Bài trước răn các việc nói vọng thì đây gọi là Chánh ngữ. Tổ Linh Hựu Đại sư ở non Quy Sơn nói : Người xuất gia mỗi khi thốt lời cần phải nhằm theo Kinh điển, nói ra một tiếng gì, cần phải ăn hợp bậc Thánh hiền. Thế nào là Chánh ngữ? Như mười điều kể như sau đây:
1. Không nói những lời giả dối.
2. Không nói những lời chê bai.
3. Không nói những lời khen mình chê người.
4. Không nói những lời dua nịnh.
5. Không nói những lời dối gạt.
6. Không nói những lời xảo trá.
7. Không nói những lời phản chánh trị.
8. Không nói những lời thô tháo mắng nhiếc.
9. Không nói những lời đâm thọc phải quấy.
10. Không nói những lời tốt xấu của người bạch y.
LỜI PHỤ.- Chánh ngữ: Lời nói chơn thật, ngay thẳng, đáng làm uy tín cho mọi người và mọi người có thể tin cậy nơi mình. Bạch y: Người thế gian theo tục, ưa mặc áo trắng, nên gọi là bạch y. Người xưa bảo : Một lời nói phải nên nước nên nhà, một lời không phải làm cho hư hại gia sản, là ý đây vậy.
Thì cũng như thế đó, một lời nói mà được người sống, và cũng một lời nói mà người phải chết. Cũng chẳng ngoài lời nói chánh và bất chánh mà thôi. Người thế thường gọi: “Lưỡi không xương nhiều đường lắc léo” là ý đây vậy.
BÀI THỨ 66
CHÁNH NGHIỆP
Chánh nghiệp: Là sự hành động chơn chánh của thân; thân nghiệp có ba: Sát, đạo và dâm. Sát, đạo, dâm chính là ba nghiệp dĩ nhiên của thân vậy.
Nay muốn ngừa những nghiệp như thế, thì phải giữ gìn nơi sáu căn, như đức Khổng Tử nói : “Sắc phi lễ đừng ngó, tiếng phi lễ đừng nghe, lời phi lễ đừng nói, việc phi lễ đừng làm”. Nhưng trong Phật pháp có thêm hai món nữa : “Mùi phi lễ đừng ngửi, điều phi lễ đừng nghĩ”, nghĩa là không đắm nhiễm sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp vậy.
LỜI PHỤ. - Chánh nghiệp: Sự hành động tạo tác của thân được chơn chánh.
Dĩ nhiên: Là sự như thế rồi.
Sáu căn: Là chỗ để cho sáu thức nương vào tạo nghiệp thiện hay ác, (sáu căn không lỗi). Tội lỗi hay không là do nơi sáu thức mà thôi. Nhưng trong khi sáu thức còn mê, thì không nên buông thả sáu căn, có hại, nghĩa là phải giữ gìn sáu căn cũng như ngăn ngừa sáu tên giặc. Nói về bên đường ác, bậc thượng trí không làm ác cũng như trước khi chưa móng; bậc trung trí sắp làm nhưng lại thôi; bậc hạ trí đang làm lại ăn năn; bậc hạ hạ trí làm rồi mới ăn năn; còn bậc vô trí vẫn thành một thứ si mê, nhắm mắt đưa chân, tới đâu hay tới đó. Rốt cuộc phải sa vào lưới pháp luật, chừng ấy ăn năn thì chuyện đã rồi : đây là nói về đường ác, nếu trái lại, là con đường thiện.
BÀI THỨ 67
CHÁNH MẠNG
Chánh mạng: Nghĩa là làm ăn nuôi thân mạng cho được sống còn, nhưng cần phải chánh đáng. Ngày xưa Đức Phật ta còn ở đời, chế ra đi khất thực để nuôi sắc thân cho được sống còn. Bây giờ nước ta phong tục đã khác tuy là đi khất thực khó khăn, nhưng cũng phải xa lánh bốn món tà mạng, mà vẫn hoằng pháp lợi sanh, thì mới có thể gọi là Chánh mạng.
Bốn món Tà mạng thực: 1- Hạ khẩu thực: như cày, bừa sát hại loài có sanh mạng. 2- Ngưỡng khẩu thực: như xem sao, cầu đảo v.v… 3- Phương khẩu thực: như dua nịnh các nhà quyền thế v.v… 4- Duy khẩu thực: như bói toán, xem tướng đoán mạng v.v… Chánh mạng của người Phật tử, có bốn món như sau: 1- Bồi dưỡng tòng lâm (rừng cây, vườn của chùa). 2- Làm thuốc chữa bệnh. 3- Dạy vẽ cho các con em. 4- Gắng làm những việc thiện.
Trong bộ Tổng Trì nói: Lợi sanh là sự nghiệp, hoằng pháp là bổn phận, đó là chánh mạng của các Phật tử.
LỜI PHỤ. - Hạ khẩu thực: Cúi xuống mà làm ăn.
Ngưỡng khẩu thực: Ngước lên làm ăn nuôi sống (như ngó lên trời xem sao v.v..)
Phương khẩu thực: Đi rảo bốn phương để kiếm ăn (như dua nịnh người này người kia v.v…)
Duy khẩu thực: Đi khắp bốn phương để hỏi làm ăn (như mấy thầy bói v.v…)
Chánh mạng: Nuôi sống thân mạng bằng cách chánh đáng, thanh liêm v.v…
Phong tục: Thói quen của người đời từ lâu, thành ra tục lệ, nề nếp v.v…
Lợi sanh: Làm lợi ích cho chúng sanh.
Hoằng pháp: Mở rộng Chánh pháp của Phật truyền bá cho tất cả dân chúng được thấm nhuần v.v…
BÀI THỨ 68
CHÁNH TINH TẤN
Chánh tinh tấn: Chúng ta phát tâm làm công việc gì tất phải cùng Chánh mạng, Chánh niệm và Chánh định tương ứng, thế mới gọi là Chánh tinh tấn. Nếu không như thế thì dù cho thức suốt đêm, tối ngày miệng tụng (Kinh) tay gõ (mõ) đi nữa cũng gọi là giải đãi vì không phải hành vi chánh đáng, cho nên không xa lìa được các sự khổ, an hưởng những việc vui.
LỜI PHỤ.- Chánh tinh tấn: Là một trong Bát Chánh đạo, mà “chánh” nào cũng cần phải có tinh tấn mới thành tựu. Song Chánh tinh tấn, trái với tà tinh tấn, vì ngoài đạo tu khổ hạnh cũng có tinh tấn nhưng tinh tấn theo lối tà đạo, chứ không như cái đạo Bát Chánh của Phật, như trên đã nói,
Miệng tụng tay gõ. (Nguyên văn: “Khẩu đồ thủ cứ”).
Tương ứng: Ăn nhịp với nhau,
Giải đãi: Dật dựa, sắp sửa đi làm mà bị nghiệp lười nó kéo lại.
BÀI THỨ 69
CHÁNH NIỆM
Chánh niệm có hai: 1- Chánh ức niệm. Ức niệm: Ghi nhớ những việc đã qua, nhưng có chánh ức niệm và tà ức niệm như bản đồ sau:

BÀI THỨ 70
2- Chánh quán niệm: Quán xét những sự vật trước mắt. Nay phân biệt cái nào là tà, chánh như bản đồ dưới đây:

BÀI THỨ 71
CHÁNH ĐỊNH
Thiền định rất là vi tế, nếu không dự biết trước, thì dễ chạy theo con đường tà. Cho nên phải phân biệt rạch ròi như cái biểu ở sau:

LỜI PHỤ. – Thiền định: Gọi Thiền-na. Hán dịch: Tịnh lự, bặt dứt những sự tư lự, cũng là nghĩa Định.
Thủ khiếu hay Cửu khiếu: Là chín lỗ cho thân mình, như tai, mắt, mũi, lưỡi, miệng v.v… giữ gìn không cho bài tiết những nước mắt, nước mũi, nước miếng v.v…
Vận khí: Là vận chuyển hơi thở từ óc đến ngực, bụng, lưng, thấu chỗ tam quan, chạy vòng xuống rún, hớp lấy những khí âm dương, kết thành Thánh thai, theo lối tu của ngoại đạo.
Luyện đơn: Là luyện thuốc trường sinh của đạo tiên.
Vô tưởng: Là tu cách diệt hết tâm tưởng, để cầu sanh lên cõi Vô tưởng, cách tu thiền định này không khác như cây đá, cái bệnh này rất nặng, gọi là chứng bệnh “tử tâm” thiệt khó cho thuốc; tâm chết sửng như cây đá v.v…
Thủ khảm: Là tu theo lối chiếm quẻ, coi bói, nham độn v.v… Chữ thủ là dùng tay lấy. Chữ Khảm v.v… là một trong tám quẻ (bát quái) : Càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài, như trên đó là tu, (tu theo lối tà đạo).
Thế nào là Chánh tu?
Hệ duyên chỉ: Là buộc tâm chuyên về một cảnh, cũng là nghĩa Định.
Sổ tức quán: Là pháp quán đếm hơi thở ra vào, từ một đếm tới mười, rồi mười đếm trở lại một; hay một đếm tới một trăm, rồi một trăm đếm trở lại một; cho đến ngàn, vạn ức, cũng vậy, chỉ cần chuyên chú nhớ kỹ. Giả sử đếm gần tới trăm mà quên, cũng phải bỏ, bắt đầu đếm lại. Đây cũng là một phương pháp tu Thiền định.
Bất tịnh quán: Quán thân này không sạch sẽ gì, để tập lần, bớt lòng tham muốn và dần dần dẹp trừ ngã ái (chấp ta).
Cửu tưởng quán: Chín cách quán:
1- Quán thân người sau khi chết, mình mẩy xanh bầm. 2- Phình chương lên. 3- Dần dần tan rã. 4- Máu mủ chảy ra. Cho đến tiêu tan ra đất, nước; thì trả lại cho đất, nước, lửa, gió cũng vậy. Ấy là pháp quán thứ chín v.v… cũng như quán thân bất tịnh nhưng pháp quán này là quán sau khi thân này đã chết, nó có những hình trạng như thế đó. Để dẹp trừ lòng ham muốn và lần hồi đi đến quả vị vô ngã, cũng là phương pháp Thiền định chánh đáng vậy.
Nhân duyên quán: Quán tất cả sự vật, trong trời đất đều là nương nhờ nhân này, duyên nọ, giả hợp tạo thành một cái như huyễn; một cái đã như huyễn thì tất cả cái gì có hình tướng cũng đều là như huyễn không có thật thể, như bóng trong gương, như trăng dưới nước, sanh diệt vô thường, không nên chấp đắm, đó tức là tu Thiền định.
Niệm Phật quán: Có nhiều cách như: ngồi yên một chỗ mà niệm gọi là quán tưởng niệm Phật; hoặc đối trước tượng Phật quán xét mà niệm, cũng gọi là quán tưởng niệm Phật. Nếu nhận rõ Phật là tâm, tâm là Phật, ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm, không thấy có mình niệm, và ông Phật bị niệm, thế gọi là quán ông Phật thật tướng mà niệm Phật vậy. Những pháp quán niệm như thế, để cho tâm chuyên chú về một cảnh, cũng gọi là Định.
Tích không quán: Dùng trí huệ phân tích các pháp giữa này không có thật thể, nên gọi tất cả các pháp đều là không, nhận được cái không tướng ấy tức là Định.
Thể không quán: Pháp quán trực nhận được lý Chơn không của các pháp, không còn có tánh cách phân biệt “năng” với “sở” nữa, tức là Định.
Nhứt tâm tam quán: Trong một cái tâm gồm đủ cả ba pháp quán : quán Không, quán Giả, quán Trung.
- Quán không: Quán các pháp giữa này toàn thể là như huyễn, như hóa, như bọt nước như chiêm bao, nên gọi là không, không có thật thể, và là như huyễn.
- Quán giả: Quán sát các pháp giữa này đều là giả tạm, mượn nhiều duyên hợp lại mà thành. Nên phải nói là có, nhưng cái có ấy không thật có; vì nó có bằng cách giả hợp, rốt cuộc cũng hoàn không, nhưng “không”, không thể nói là không, vì nó còn có cái giả hợp như huyễn.
- Quán trung: Quán hai pháp trên, chẳng phải “không”, chẳng phải “có”, pháp quán này không chênh lệch bên nào, mà bên nào cũng không chấp, và bên nào cũng có, nhưng có mà “có” bằng cách như huyễn, nên đặt tên “Trung đạo quán”; thế gọi là một tâm mà đầy đủ cả ba quán vậy.
BÀI THỨ 72
TỨ ĐẾ
Chữ Đế là chắc thật. Đức Thích Tôn thuyết pháp 49 năm, đều dùng pháp Tứ đế làm giềng mối, như sau này :
1- Khổ đế: Trong ba cõi sáu đường v.v… chắc chắn là khổ; đây là cái quả khổ ở thế gian.
2- Tập đế: Những tham, sân, si, v.v… hai mươi sáu món phiền não, chắc chắn là nguyên nhân để chịu khổ; đây là cái nhân khổ của thế gian.
3- Diệt đế: Như những bậc A-la-hán v.v… đã chứng được quả Niết-bàn, chắc chắn là vui; đây là quả vui của xuất thế gian.
4- Đạo đế: Tu Bát Chánh đạo và Ba mươi bảy phẩm trợ đạo v.v… chắc chắn là cái nhân để hưởng cái vui, đây là cái nguyên nhân vui của xuất thế gian.
LỜI PHỤ.- Tứ đế: Là bốn điều chắc thật, Khổ, Tập, Diệt, Đạo theo lẽ phải hiểu trở lại: Tập, Khổ, Đạo, Diệt, vì có nhân chứa nhóm các phiền não nên mới có kết quả khổ; đó là cái nhân quả của thế gian. Vì có biết đạo tu hành, nên mới diệt trừ được các phiền não, ra ngoài ba cõi; đó là nhân quả của pháp xuất thế gian vậy. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo không ngoài những pháp: Tứ niệm xứ; Tứ chánh cần; Tứ như ý túc; Ngũ căn; Ngũ lực; Thất giác chi và Bát Chánh đạo v.v…
LỤC CĂN, LỤC TRẦN, LỤC THỨC, LỤC ĐỘ

LỜI PHỤ.
