Câu Hỏi 20-39

Thứ Sáu, 20 Tháng Năm 20169:39 CH(Xem: 3159)
Câu Hỏi 20-39

100 CÂU HỎI PHẬT PHÁP
Thích Phước Thái


20. Hối lỗi vì can dự vào việc người.

 

Hỏi: Bạch thầy, có lần sau khi thọ bát ở chùa về, con chứng kiến một cuộc cãi vả đôi chối giữa đứa con dâu với đứa cháu dâu kêu con bằng cô. Thấy vậy, con mới đứng ra hóa giải dàn xếp cho yên chuyện, nhưng không ngờ đứa cháu dâu phản bác lại bảo con không nên xen vào chuyện của nó. Con tức quá nói không ra lời, nên lúc đó con quỳ xuống xin lỗi và bảo: "Xin con cho cô gánh hết tất cả lỗi đừng cãi nữa để cô chịu hết". Đứa cháu dâu bắt lỗi con trù nó giảm thọ, con giải thích cách nào cũng không được. Như vậy, có phải con có lỗi trù nó hay không? Và việc làm nầy của con đúng hay sai? Mong thầy chỉ dẫn cho con cách nào xóa lỗi. Kính cảm ơn thầy nhiều.

 

Đáp: Việc khuyên can của Phật tử đó là điều rất tốt không có gì là sai trái cả. Người có tấm lòng nhân từ hòa ái, hào hiệp, biết yêu thương người, khi thấy việc bất bình xảy ra dù là người thân hay sơ, họ cũng hết lòng dự vào can gián, vì họ không muốn chứng kiến cảnh ấu đả gây ra sự tổn thương thiệt hại cho đôi bên. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp vì lòng tốt của mình mà mang họa hại vào thân. Bởi thế nên người xưa có câu nói: "Ách giữa đàng mang vào cổ". Chuyện can dự vào việc người cũng thường hay xảy ra như thế. Cùng một hành động can gián khuyên giải, nhưng có người vì nóng tánh không giữ được sự bình tĩnh kiên nhẫn sáng suốt, ban đầu còn ở vị thế là ngưòi đứng ra hòa giải, nhưng sau cùng cũng nhập cuộc lâm trận ăn thua đủ với nhau luôn. Ngược lại, có người thì họ còn giữ được sự bình tĩnh kiên nhẫn, khéo dùng lời lẽ can gián phải trái để khuyên bảo đôi bên, nên họ sớm dập tắt được ngọn lửa sân hận đang cháy của đối phương. Tuy nhiên, việc đứng ra hóa giải một cuộc tranh chấp, còn tùy theo cường độ tranh chấp nặng nhẹ của đối phương và cộng thêm đức độ uy tín, tài năng khéo léo của người đứng ra dàn xếp hóa giải nữa. Không phải cuộc hóa giải nào cũng được dễ dàng êm thắm yên xuôi hết đâu.

 

Trường hợp của Phật tử cũng thế. Vì Phật tử không thể dửng dưng khi chứng kiến giữa người thân trong gia đình xảy ra việc bất hòa tranh chấp cãi vã hơn thua với nhau. Tuy Phật tử khuyên giải bằng tất cả tấm lòng của một người lớn. Thế nhưng, lòng tốt của mình đôi khi cũng dễ bị đối phương hiểu lầm. Bởi do việc xử sự hành động của mình không được tế nhị, khéo léo. Hoặc có đôi khi người khuyên giải có hơi thiên lệch tình cảm không công bằng nên làm cho đối phương bất phục. Khi Phật tử khuyên giải thì bị người cháu dâu chẳng những không nghe theo mà còn thốt lời vô lễ với Phật tử. Do đó nên Phật tử vì quá tức giận nên mới hành động quỳ xin lỗi và bảo: " Xin con cho cô gánh hết tất cả lỗi đừng cãi nữa để cô chịu hết". Hành động và lời nói nầy của Phật tử rõ ràng là có sự hờn lẫy giận tức trong đó. Bởi thế nên người cháu dâu mới cho Phật tử là trù nó giảm thọ.

 

Hành động của Phật tử chẳng những không có kết quả tốt đẹp mà còn bị người cháu dâu phản bác lại. Bởi Phật tử là người vô can đâu có dính líu gì đến việc cãi vã của hai người. Đó chẳng qua, vì Phật tử nóng lòng muốn dàn xếp cho yên chuyện mà phải hành động như thế. Trong trường hợp nầy Phật tử vì giận tức mà hành động có hơi quá đáng. Tại sao Phật tử phải quỳ và gánh lỗi của người khác? Phật tử quên rằng, lỗi ai gây ra thì người đó phải chịu nhận lấy, không ai thay thế tội lỗi cho ai được cả. Dù là tình thân ruột thịt máu mủ cũng không thể nào thay nhau được. Nếu thay được thì còn gì là luật nhân quả? Không thể người nầy ăn mà người khác lại no bụng? Đâu có chuyện ngược đời như vậy. Nếu thay thế được, thì xưa kia, Tôn giả Mục Kiền Liên đã thay tội lỗi cho mẹ của Ngài rồi. Đâu cần gì phải thỉnh Phật và chư Tăng chú nguyện.

 

Chính hành động và lời nói của Phật tử không khéo nên mới gây ra  chạm tự ái mạnh của người cháu dâu, nên cháu mới tức giận và quy trách tội lỗi cho Phật tử là trù rủa cháu. Hai người đang cãi vã với nhau, lẽ ra, Phật tử nên lấy quyền của người mẹ, người cô, mà khuyên bảo hay la rầy cả hai người mới phải, ngược lại, Phật tử chỉ van xin người cháu dâu thôi. Chính điều đó làm cho người cháu dâu hiểu lầm nghĩ Phật tử thiên vị bênh vực người con dâu nên mới hành động như vậy. Hành động nầy tuy Phật tử không có ý như thế, nhưng chỉ vì nóng lòng mà hành động thiếu bình tĩnh sáng suốt đó thôi. Vì thế, nên Phật dạy người Phật tử, từ bi nhưng phải có trí huệ soi sáng. Nói cách khác, từ bi cần phải có sự điều động của lý trí. Có thế, thì việc làm mới không bị vấp phải lỗi lầm.

 

Tóm lại, việc làm của Phật tử tuy mục đích nhắm tới thì không sai nhưng hành động của Phật tử làm như thế thì không đúng lắm. Phật tử đâu cần phải quỳ lụy xin lỗi như thế. Vì Phật tử là bậc trưởng thượng của hai người kia mà! Phật tử chỉ dùng lời khuyên can phân tích phải trái để hóa giải việc tranh cãi. Nếu họ nghe thì tốt còn bằng không thì thôi. Bởi khi tranh cãi ai cũng muốn biện minh cho mình là phải hết nên không ai chịu khuất phục nhịn nhục thua ai. Đó là do lòng sân hận nóng giận thúc đẩy nên mới có sự tranh cãi hơn thua như thế. Lửa đang bùng cháy mà không biết cách dập tắt thì chỉ chuốc lấy họa hại vào thân thôi!

 

Lần sau, nếu gặp trường hợp như thế, tôi thành thật khuyên Phật tử nên bình tĩnh khéo léo trong việc khuyên giải. Thật ra Phật tử đâu có lỗi gì mà phải xóa. Chỉ có cái lỗi là khuyên can muốn cho hai người đừng tranh cãi nhau thôi. Phật tử nên hiểu biệt nghiệp tánh tình của mỗi người mỗi khác. Mình muốn người ta nghe theo mình hoàn toàn, điều đó không phải là chuyện dễ làm đâu. Người nào mình khuyên can được thì nên khuyên, còn bằng khuyên không được thì thôi. Nếu không khéo, thì mình cũng bị nhập cuộc và mang thêm phiền não họa lây vào mình.

 

Kính chúc Phật tử luôn sáng suốt an bình trong nếp sống.

 

21. Tu mà không hiểu nghĩa lý trong kinh Phật nói là tu giả.

 

Hỏi: Kính bạch thầy, có thầy nói: Nếu Phật tử nào tu mà không hiểu nghĩa lý trong kinh Phật nói, thì Phật tử đó là tu giả (không thật tu). Bạch thầy, chúng con chỉ biết đi chùa, niệm Phật và hiểu rất ít ý nghĩa về kinh Phật. Không lẽ vì vậy mà chúng con tu giả hết hay sao? Và tu như thế theo thầy đó nói, chúng con có lỗi không? Kính mong thầy từ bi giải đáp cho chúng con hiểu. Có nhiều Phật tử rất băn khoăn về vấn đề nầy.

 

Đáp: Lời nói đó thật ra thì không sai nhưng có lẽ vị thầy đó chưa giải thích rõ để cho Phật tử hiểu. Chính vì vậy nên Phật tử mới đâm ra nghi ngờ thắc mắc. Ở đây, tôi chỉ dựa vào câu hỏi của Phật tử đã nêu ra mà góp chút thành ý trong vấn đề nầy. Đã là Phật tử, thì ít nhiều gì chúng ta cũng cần phải tìm hiểu học hỏi qua những lời Phật dạy. Bởi những lời Phật dạy trong Kinh, nghĩa lý của nó thật thâm sâu vi diệu. Đối với trình độ căn cơ hạn hẹp nông cạn của chúng ta hiểu được phần nào thì tốt phần đó. Việc tìm hiểu học hỏi của người Phật tử không bao giờ ngừng. Bởi nguồn giáo lý của đạo Phật nó rộng sâu như bể cả. Thế nên, chúng ta cần phải gia công nghiên tầm học hỏi cho thấu đáo. Tu mà không hiểu lời Phật dạy thì đó là tu mù. Theo tôi, nên nói tu mù có lẽ đúng hơn là tu giả. Tại sao gọi là tu giả? Tu giả là ngụy trang hình thức bề ngoài để lừa bịp thiên hạ. Nhìn bề ngoài thì giống như người tu, nhưng kỳ thật trong tâm thì chẳng có tu hành gì cả. Đây là hạng người ngụy tạo danh nghĩa, thực chất thì không có tu hành đúng theo chân lý mà Phật đã dạy. Tu có ý đồ phô trương hình thức giả trá để tiện bề trục lợi. Vì thế nên mới có câu nói: "Chiếc áo không làm nên thầy tu" là thế.

 

Đối với hạng người nầy thì chúng ta có thể nói họ là người giả tu chớ không phải là chơn tu. Ngược lại, tuy có người chưa hiểu nghĩa lý thâm sâu trong Kinh Phật dạy, nhưng họ có tấm lòng chân thật tu hành muốn được giải thoát sanh tử khổ đau, thì sao gọi họ là người tu giả được? Chỉ có thể trách họ là người không chịu nghiên tầm học hỏi Phật pháp để biết rõ đường lối tu hành để khỏi phải rơi vào tà kiến ngoại đạo. Vì thế nên mới có câu nói: "Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đãy sách". Thế thì, là Phật tử chúng ta nên cố gắng học hỏi tìm hiểu nghĩa lý trong Kinh mà Phật Tổ đã chỉ dạy. Có hiểu đúng thì mới thật hành đúng. Như thế thì mới có lợi lạc cho mình trong hiện tại và tương lai. Đây là câu nói sách tấn, để cho Phật tử cố gắng tìm hiểu học hỏi Kinh điển mà thôi. Vì câu nói không được rõ ràng nên Phật tử mới hoài nghi thắc mắc. Thay vì nói tu mù thì lại nói tu giả.

 

Trong đạo Phật bao giờ cũng nêu cao tôn chỉ là "Tri hành hợp nhứt". Tri thuộc về phần hiểu biết nghiên về lý thuyết, tức phần nghiên cứu tìm hiểu về mặt kiến giải. Còn Hành là phần thực nghiệm hay thật hành qua những lý thuyết chỉ hướng chân lý. Lý thuyết dụ như con mắt sáng nhìn xa thấy rộng. Thật hành dụ như đôi chân vững mạnh bước đi vững chắc. Như vậy, cả hai đều phải được song hành hỗ tương với nhau mới có thể đạt được mục đích nhắm tới. Tuy nhiên, phần lý thuyết bao giờ cũng đi xa hơn phần thật hành. Đôi khi nói thì dễ mà thật hành thì rất khó. Như người đứng dưới chân núi, nhìn thấy trên đỉnh núi cao rõ ràng, nhưng muốn trèo lên tới đỉnh núi không phải là chuyện dễ. Tất nhiên, nó đòi hỏi người đó phải có đầy đủ ý chí nghị lực cương quyết mạnh mẽ vượt qua khó khăn mới có thể đạt được như ý muốn. Sự tu hành cũng thế. Hành giả muốn đạt được giác ngộ giải thoát thì cũng phải trải qua nhiều gian nan thử thách mới tựu thành. Nhưng phải đi đúng hướng thì mới đến đích được. Hướng đi là phần lý thuyết chỉ đạo. Nếu chỉ có lý thuyết không thôi thì đó cũng chỉ là lý thuyết suông. Nếu thật hành mà thiếu phần lý thuyết chỉ đạo thì hành giả sẽ khó đạt thành sở nguyện. Vì thế, người tu Phật cần phải có đầy đủ cả hai hỗ tương song hành với nhau. Đó là điều rất quan yếu trong việc tu hành của người Phật tử mong cầu thoát ly sanh tử khổ đau vậy.

 

Kính chúc Phật tử tinh tấn tu hành chóng đạt thành sở nguyện.

 

22. Người nữ muốn đi xuất gia có cần điều kiện gì không?

 

Hỏi: Kính thưa thầy, một người nữ muốn xuất gia trong luật Phật dạy có cần điều kiện gì không? Trường hợp ở Úc muốn tu thì tu ở đâu? Kính xin thầy giải thích cho con rõ. Việc nầy con ôm ấp trong lòng đã lâu rồi mà chưa có dịp hỏi.

 

Đáp: Trong câu hỏi nầy có hai vấn đề mà chúng tôi xin được góp ý:

 

Thứ nhứt, Phật tử hỏi: Một người nữ xuất gia trong luật Phật dạy có cần điều kiện gì không? Xin thưa, nếu người nữ nào muốn xuất gia thì theo luật Phật dạy, cần phải hội đủ những điều kiện sau đây:

 

1. Nếu là người nữ chưa đến tuổi trưởng thành theo luật pháp đã định và cũng chưa có lập gia đình, khi muốn vào chùa tu thì phải có sự đồng ý của cha mẹ. Trong trường hợp người nữ đó không còn cha mẹ thì việc phát tâm xuất gia không có gì trở ngại.

 

2. Nếu là người nữ đã đến tuổi thành nhân theo pháp định, tự mình có thể quyết định đời mình, không còn lệ thuộc vào cha mẹ, thì việc xuất gia không có gì trở ngại. Tuy nhiên, nếu người nữ đó đã có gia đình hiện đang sinh sống với chồng con mà muốn đi xuất gia thì, phải được sự đồng ý của chồng con. 

 

3. Người nữ đó tương đối phải có sức khỏe tốt và không bị khuyết tật, vì bị khuyết tật thiếu một trong sáu căn thì theo luật Phật chế, sau khi xuất gia không được thọ đại giới Tỳ kheo.

 

4. Người nữ đó không bị vi phạm vào luật pháp thế gian và cũng không vướng phải một số nợ nần lớn, như trường hợp trốn thuế hay giựt nợ v.v...

 

5. Người nữ đó không bị can hệ dính líu đến tình duyên, như trong trường hợp bị thất tình hay trốn tránh người yêu hoặc đã đính hôn sắp cưới hỏi v.v...

 

Nếu người nữ nào vướng phải những điều kiện trên, thì theo luật Phật dạy không thể xuất gia được. Bởi khi vào chùa mà duyên trần chưa dứt thì đối với bản thân của người đó không được lợi lạc và đối với nhà chùa thì chỉ gây thêm sự phiền phức rắc rối xáo trộn trong chùa mà thôi.

 

Thứ hai, Phật tử hỏi: Trường hợp ở Úc muốn tu thì tu ở đâu? Xin thưa, ở Úc có rất nhiều chùa, tùy theo nhân duyên của Phật tử đó muốn xuất gia tu ở chùa nào thì phải được sự đồng ý của vị Tăng hoặc Ni ở chùa đó. Tuy nhiên, theo tôi, thì nên tìm chùa Ni để xin xuất gia thì tốt hơn. Bởi chùa Tăng ít khi nhận người nữ xuất gia. Nếu có thì cũng phải có đông chư Ni mới được. Trường hợp như Tổ Đình Phước Huệ ở Sydney, hiện nay ngoài một số ít chư Tăng ra, còn có một số đông chư Ni tu học tại Tổ Đình, phần lớn là những vị trọng tuổi.

 

Tóm lại, điều nầy không nhất định là phải tu ở chùa nào tùy nhân duyên của đương sự. Nếu có nhân duyên với vị Tăng hay Ni nào hoặc chùa nào, thì cũng đều xin xuất gia tu học được cả. Tuy nhiên, việc chấp nhận hay không là còn tùy thuộc vào nhân duyên cả hai: thầy và trò nữa. Đồng thời còn phải y cứ vào luật Phật dạy để xét qua như những điều kiện đã được nêu ra ở trên.

 

Kính chúc Phật tử chóng đạt thành ý nguyện.

 

23. Phát nguyện tịnh khẩu lỡ nói chuyện có tội không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, trong khóa tu kỳ rồi, con có phát nguyện tịnh khẩu suốt thời gian 7 ngày, nhưng con lỡ nói chuyện với một người bạn hỏi con, như vậy con có tội không? Và con có nên sám hối không?

 

Đáp: Việc tịnh khẩu hay bất cứ một việc làm nào khác, tự mình đã phát nguyện gìn giữ mà không giữ đúng theo lời phát nguyện đó thì đều có tội cả. Tội nầy không do ai bắt tội mình mà chính do mình gây ra và mình phải nhận lấy. Bởi mình giữ không tròn những gì mà mình đã phát nguyện. Luận về tội, thì có tội cố ý và tội vô tình và cường độ của tội lỗi gây ra nặng nhẹ có khác nhau. Nếu như mình đã phát nguyện gìn giữ mà vẫn cố ý vi phạm, thì theo luật Phật dạy, đây là tội nặng. Ngược lại, vì vô tình không có chủ tâm cố ý mà vi phạm thì tội nhẹ. Trong trường hợp của Phật tử, tuy Phật tử đã phát nguyện trước Tam bảo là tịnh khẩu suốt trong thời gian dự tu bảy ngày, nhưng vì có người hỏi nên Phật tử quên lỡ nói, điều nầy cũng có tội nhưng rất nhẹ. Bởi Phật tử vô tình chớ không có cố ý. Vả lại, không phải tự ý Phật tử nói, vì có người hỏi nên Phật tử mới thốt ra lời. Như vậy, đâu phải Phật tử tự nhiên cố tình gây ra. Cho nên Phật tử chỉ cần sám hối là hết tội.

 

Trong 100 câu hỏi Phật Pháp tập 2, ở tiết mục 82, trang 269, tôi đã có nói qua về vấn đề tịnh khẩu. Nếu Phật tử muốn biết rõ thêm về vấn đề tịnh khẩu nầy thì nên đọc lại quyển sách đó, hoặc vào các trang mạng: Quang Minh, Tạng Thư Phật Học hay Hoa Sen v.v... đều có. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc lại đại khái về mục đích của việc tịnh khẩu. Tịnh khẩu có nghĩa là thanh tịnh khẩu nghiệp. Bởi cái miệng tuy là công cụ để phát ra lời nói, nhưng nếu chúng ta không khéo gìn giữ cẩn thận phát ngôn bừa bãi thì cũng dễ gây ra tai hại. Vì vậy, để tránh tội lỗi gây ra bởi cái miệng lắm lời nhiều chuyện, nên Phật Tổ thường khuyên chúng ta nên ráng tu cái khẩu nghiệp. Nếu nói cho đúng là phải nói ngữ nghiệp. Nhờ gìn giữ ở nơi lời nói nên ít gây ra tội lỗi. Bao nhiêu phước đức có ra, phần nhiều đều bị cái khẩu nghiệp nó thiêu đốt hết. Nếu chúng ta khéo sử dụng cái miệng nói những lời chánh ngữ hay ái ngữ hòa nhã êm dịu dễ thương thì, không những có lợi lạc cho mình mà còn đem lại sự lợi lạc cho người khác nữa. Nhưng rất tiếc, trong đời sống hằng ngày ít có ai nói như thế. Phần nhiều là thốt ra toàn những lời chua cay độc hại gây khổ đau cho mình và người. Bởi vậy, trong giới thứ tư Phật dạy người Phật tử không được nói dối, chuyện không nói có, chuyện có nói không, nói lời thêu dệt trao chuốt, nói lưỡi hai chiều tới đây nói kia, tới kia nói đây, gây xích mích ly gián hai bên với nhau. Nhất là nói lời hung ác trù rủa chưởi mắng.

 

Để bớt tạo nghiệp tội lỗi ở nơi cái miệng, nên Phật Tổ khuyên chúng ta ít nói nhiều câu chuyện mà nên niệm nhiều câu Phật. Mục đích của việc tịnh khẩu là cốt để tránh gây ra tội lỗi bởi cái khẩu nghiệp. Đúng ra tịnh khẩu không hẳn là câm như hến mà chúng ta chỉ nói những lời hòa nhã êm dịu, đoàn kết, yêu thương, xây dựng, không chia rẽ hận thù, đó cũng là ý nghĩa của việc tịnh khẩu. Nếu chúng ta chưa được như thế, thì cũng nên phát nguyện không nói trong những khóa tu đặc biệt cũng là tốt. Tập cho chúng ta có một thói quen ít nói và cẩn thận hơn ở nơi lời nói. Vì nói nhiều tâm ta càng rối loạn bất an. Vì muốn tâm an nên cần phải tịnh khẩu. Đó là mục đích chính của việc tịnh khẩu vậy.

 

Tóm lại, Phật tử yên tâm đó là vì có người hỏi mà Phật tử quên nên mới thốt ra lời. Thế thì Phật tử chỉ cần sám hối là hết tội.

 

Kính chúc Phật tử thăng tiến mãi trên bước đường tu học Phật pháp để sớm đạt thành sở nguyện.

 

24. Mãi vật phóng sanh như thế nào mới đúng pháp?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, thường khi phóng sanh quý thầy làm lễ quy y cho chúng nó rồi mới thả, còn Phật tử chúng con muốn phóng sanh mua xong là đem thả ngay. Như vậy xin hỏi chúng con làm như thế có đúng không? Xin thầy từ bi chỉ dạy.

 

Đáp:  Ý nghĩa phóng sanh là trả lại sự sống cho muôn loài. Mãi vật phóng sanh là điều rất quý nên làm. Bởi loài nào cũng đều ham sống sợ chết cả. Chẳng qua là vì kẻ yếu thường bị kẻ mạnh ỷ thế hiếp đáp và tàn sát với nhau đó thôi. Có loài nào mà không ham sống sợ chết? Dù nhỏ nhít như con kiến, con trùng, chúng nó cũng có mạng sống và chúng cũng biết quý trọng mạng sống của chúng. Trong tất cả các loài động vật, thì loài người là thông minh hơn hết. Vì vậy, nên mới nói loài người là loài cao cấp thượng đẳng.

 

Đức hiếu sinh là cội gốc đạo đức nhân bản của con người. Bởi hiếu sinh là trân quý sự sống, tôn trọng và bảo vệ sự sống. Nếu con người mà thiếu đi đức tánh hiếu sinh nầy thì đâu có khác gì các loài động vật hạ đẳng thấp hèn khác. Trong tất cả các tội lỗi, không có tội lỗi nào bằng tội sát sanh hại vật. Và cũng không có quả báo nào lớn lao hơn bằng quả báo giết hại các loài sinh vật. Đó là quả báo trọng đại mà người thọ báo phải nhận chịu cực hình đau khổ.

 

Truyền thống phóng sinh ở nước Việt Nam ta đã có từ lâu đời. Nhất là vào những dịp đại lễ Phật Đản, Vu Lan hay lễ Chúc thọ cho ông bà cha mẹ. Thường thì người ta hay mua những con vật để phóng thích. Không gì quý hơn là trả lại sự sống tự do cho muôn loài. Một người bị nhốt trong lao tù cảm nhận mất tự do và đau khổ như thế nào, thì con vật khi bị chúng ta bắt chúng nhốt vào trong một cái lồng (khác nào nhốt chúng trong lao tù), thì chúng cũng cảm thấy mất hết tự do và đau khổ cũng như thế ấy. Thử hỏi, có loài nào mà không thích sống tự do? Môi trường sống của loài vật là cả một bầu trời thênh thang bao la rộng lớn. Nay chúng ta bắt nhốt chúng trong một cái chậu hay một cái lồng, thì chúng đâu có còn tự do bay nhảy trong bầu trời mênh mông lồng lộng kia nữa! Tất nhiên, là chúng cũng muốn thoát khỏi cái ngục tù giam hãm càng sớm càng tốt. Con người cũng thế. Khi bị nhốt trong ngục tù thì ai cũng muốn chóng được thoát ra. Người ta nói: "Nhứt nhựt tại tù thiên thu tại ngoại". Nghĩa là một ngày ở trong ngục tù bằng một trăm năm ở bên ngoài. Câu nói đó cho chúng ta thấy được sự khao khát của một con người hay của một loài vật muốn có được đời sống tự do như thế nào rồi. Nói thế, để thấy rằng, việc Phật tử mua một hay nhiều con vật rồi đem thả ngay, đó là điều mà Phật tử thực hiện đúng với ý nghĩa phóng sanh. Tuyệt nhiên, không có gì là sai trái cả.

 

Ngược lại, khi Phật tử mua một con vật nào đó rồi đem vô chùa và muốn để cho quý thầy làm lễ cầu nguyện quy y cho chúng nó, việc làm nầy tuy không sai, nhưng xét kỹ ra thì thật là tội nghiệp cho những con vật bị nhốt quá! Tất nhiên, là không đúng mấy với ý nghĩa phóng sanh rồi. Bởi khi những con vật bị nhốt chung trong một cái lồng, chúng chuyền nhảy dẫm đạp lên nhau. Nếu con nào yếu đuối thì sẽ bị bầm dập nhừ tử ngất ngư. Phải chờ đợi đến khi thầy rảnh rỗi mới làm lễ. Khi làm lễ còn phải theo nghi thức tụng niệm dài dòng. Đến khi thả ra có con không còn đủ sức bay nhảy nổi nữa. Việc làm nầy, theo tôi nghĩ, thì quý thầy cũng chỉ làm theo ý nguyện của Phật tử đó thôi. Vì Phật tử chưa hiểu rõ ý nghĩa của việc mãi vật phóng sanh nên mới làm như thế. Còn khi đã hiểu rồi thì không cần thiết phải làm theo thủ tục nghi thức rườm rà mà khi mua xong là cứ chú nguyện cho chúng rồi phóng thích chúng ngay. Đó là điều mà chúng đang khao khát mong đợi từng giây phút. Có niềm vui nào lớn hơn khi được phóng thích, vì chúng đã trở lại cuộc sống tự do sinh hoạt bình thường. Chúng nó đang cần sự tự do như con người đang cần không khí để thở. Theo tôi, phóng sanh như thế, thì mới đúng ý nghĩa của việc phóng sanh vậy.

 

Kính chúc Phật tử tu tạo nhiều thiện nghiệp để có được đời sống an vui trong hiện tại và mai sau.

 

25. Trong lúc niệm Phật có hiện tượng lạ trên đầu.

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, mỗi lần con niệm Phật như có vật gì bò hoài trên đầu con, con thử  lấy tay xoa và kéo xuống. Có thầy nói không sao đâu nhưng càng ngày con càng thấy như có con vật gì đang bò mạnh trên đầu con. Xin hỏi hiện tượng nầy như thế nào? Và phải làm sao cho nó hết.?

 

Đáp: Hiện tượng đó không có gì là quan trọng mà Phật tử phải quan tâm bận lòng. Theo kinh nghiệm của các bậc Cổ Đức trong làng tu thì, khi hành giả phát nguyện tinh tấn tu hành thì sẽ có một vài chướng duyên thử thách. Tùy theo sự phát nguyện và sức dụng công tinh tấn tu hành của mỗi hành giả mà có những chướng duyên khảo đảo nặng nhẹ khác nhau. Những bậc tu hành cao thì mới có những chướng nạn thử thách lớn. Còn như trường hợp của Phật tử tưởng cũng nên xét lại cho kỹ. Có đôi lúc do mình suy tưởng tạo thành những ấn tượng ảo giác như là có thật, kỳ thật thì không phải như vậy. Đôi khi một dây thần kinh nào đó của Phật tử bị suy yếu nên nó dẫn máu về não bộ không đều, từ đó nó cũng có thể gây ra hiện tượng như thế. Bởi khi mình ngồi niệm Phật do sự tập trung tâm ý vào câu hiệu Phật, nên hệ thần kinh hơi bị căng thẳng và lúc đó nhiệt độ đưa lên nên Phật tử có cảm giác như thế. Kinh nghiệm cho thấy, có người ngồi niệm Phật nghe trên đầu như bị tê rần rần, đó là hiện tượng của hệ thần kinh nào đó đã bị suy nhược.

 

Giả sử như có một vật gì đó bò như thế, thì Phật tử nên biết tất cả mọi hiện tượng đều là huyễn hóa không thật. Đã là huyễn hóa thì đâu có gì là quan trọng. Phật tử cứ bền tâm mà niệm Phật. Trong lúc dụng công tinh tấn niệm Phật thì dù có gặp bất cứ hiện tượng nào xảy ra, Phật tử cũng đừng quan tâm, coi đó như là một chướng duyên thử thách trên bước đường tu tập của mình mà thôi. Phật tử phải có lập trường kiên định và giữ vững ý chí không có gì phải lo lắng sợ hãi. Thật ra, chỗ dụng công tu hành của mình so với các bậc Cổ Đức chuyên tu thì chẳng có thắm vào đâu. Và cũng không có con ma nào léo hánh tới mình để phá phách. Vì mình đâu có phải là đối tượng của nó. Khi nào mình vượt cao hơn nó thì nó mới để ý mà tìm cách phá hại. Trường hợp như Hư Vân thượng nhơn, một bậc cao tăng cận đại, trong khi tinh tấn dụng công tham thiền, nghiệp chướng bỗng phát hiện làm cho Ngài bị đui, điếc và câm trong ba tuần nhựt.

 

Trong quyển Niệm Phật Thập Yếu do cố Hòa thượng Thiền Tâm biên soạn có nêu ra câu chuyện: " Có một vị tăng tu Tịnh độ, niệm Phật mỗi ngày đêm đến mười muôn câu. Do công đức niệm Phật, chỗ đất của sư đi đều hóa ra sắc vàng rồng. Một hôm có người nạn dân đến xin tá túc. Sư nhìn người ấy rồi nói riêng với thị giả: "Gã nầy có tướng đạo tặc, ngươi nên cho y ăn no rồi hãy bảo ra khỏi nơi đây". Ông đạo nhỏ vì lòng thương xót, thấy người kia nài nỉ mãi, lưu luyến chưa nỡ đuổi. Quả nhiên ít hôm sau, người ấy nửa đêm lén vào phòng sư bẻ gảy chân tay giết ông chết, trộm một ít đồ trong am rồi bỏ đi luôn". Đó là hai trường hợp do định nghiệp phải trả không thể tránh khỏi.

 

Người tu có ba chướng: Phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng. Trong ba chướng đó sức nghiệp chướng là nặng nề và nguy hiểm hơn cả. Vì thế, trong khi dụng công tu hành, nếu có những chướng duyên xảy đến, thì các bậc Cổ Đức khuyên chúng ta nên cố gắng khắc phục vượt qua và phải an nhẫn tùy duyên tu hành. Tùy chỗ dụng công tu hành của mỗi người mà nó có những nghiệp chướng thử thách nặng nhẹ khác nhau. Trường hợp của Phật tử trong khi niệm Phật mà có hiện tượng đó xảy ra, thì Phật tử cũng đừng quan tâm và cứ chú tâm vào câu hiệu Phật mà niệm. Nếu không phải là do thần kinh gây ra, thì tự nhiên nó sẽ hết mà thôi. Phật tử không nên lo lắng, vì đó chỉ là một hiện tượng rất bình thường không có con ma nào phá phách đâu mà Phật tử lo sợ.

 

Kính chúc Phật tử bền tâm an nhẫn mà tu hành cho đến ngày thành công viên mãn Phật quả.

 

26. Thọ giới Sa di tu ở chùa, khi đau yếu hay bất lực có phải trở về nhà không?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, năm nay tuổi con đã cao, nhưng con muốn xuất gia thọ giới Sa di ở chùa. Vậy sau nầy nếu như con bị bệnh đau yếu không còn làm việc chùa được nữa, con có phải trở về nhà không?Vì con nghe một vài người nói là khi bị bệnh đau trong chùa không ai chăm sóc phải trở về nhà cho con cháu chăm sóc. Không biết họ nói như vậy có đúng không? Kính mong thầy giải đáp cho con rõ. Con xin cảm đội ơn thầy.

 

Đáp:  Như đã nói, hạnh nguyện xuất gia là một hạnh nguyện thật vô cùng cao cả, không phải ai cũng có thể thực hiện được. Nguyên hai chữ "xuất gia" cũng đã nói lên cái ý nghĩa xuất ly sanh tử khổ đau trong Tam giới rồi. Nếu chỉ có tu theo hình thức bề ngoài đầu tròn áo vuông, làm công kia việc nọ giúp cho chùa, lếu láo cho qua ngày đoạn tháng, gieo chủng duyên cho đời sau không thôi, thì điều đó không phải là chí nguyện cao cả của người xuất thế. Chí nguyện của người xuất gia là phải xuất trần thượng sĩ. Muốn thế, người xuất gia cần phải hội đủ cả hai điều kiện: "Hạnh""Giải" phải tương ưng. Nếu thiếu một trong hai thì chưa phải là người tu hạnh xuất thế. Ý nguyện xuất gia là một ý nguyện rất cao thượng. Tổ Quy Sơn dạy: "Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu". Nghĩa là: "Phàm người xuất gia là phải cất bước đến phương trời cao rộng, tâm hình khác tục. Nối thạnh dòng Thánh, hàng phục ma quân, nhằm đền trả bốn ân và cứu giúp ba cõi". Qua đó, Phật tử thấy hạnh tu xuất gia đâu phải là chuyện tầm thường dễ làm. Nói thế, không phải để cho Phật tử thối chí nản lòng. Nêu ra như thế với thâm ý là để cho Phật tử hiểu và thấy được cái tầm quan trọng siêu xuất thế gian của người xuất gia.

 

Trong câu hỏi của Phật tử, tôi thấy Phật tử nêu ra có những vấn đề rất thiết thực mà tôi xin được góp chút thành ý, rồi tùy đó mà Phật tử suy nghĩ chín chắn để quyết định.

 

1. Phật tử nói: "Năm nay tuổi của Phật tử đã cao, nhưng Phật tử muốn xuất gia thọ giới Sa di ở chùa". Đây là một ý nguyện rất tốt, tôi xin hết lòng tùy hỷ tán dương ý nguyện đó. Tuy nhiên, ở đây, tôi muốn Phật tử nên suy xét kỹ lại. Phật tử nói tuổi Phật tử đã cao (xin lỗi, tôi không biết tuổi của Phật tử đã cao đến bao nhiêu, vì Phật tử không có nói rõ), nhưng muốn xuất gia thọ giới và chỉ muốn thọ giới Sa di mười giới thôi. Điều nầy, theo luật, thì không có gì trở ngại cả. Tuy nhiên, Phật tử nên biết, xuất gia ở chùa không phải chỉ có hình thức của cái đầu tròn áo vuông không thôi, mà còn phải thật hành những gì cao cả hơn nữa. Nếu như vào trong chùa mà tối ngày chỉ biết làm một vài công việc lặt vặt nhẹ nhàng nào đó, kinh kệ thì không rành, oai nghi giới luật cũng không thông, hành vi cử chỉ thì thô tháo, tới lui trái phép, ngôn hạnh chống trái nhau, thời khóa cũng không giữ đúng, học hành giáo lý thì chẳng tới đâu v.v... Phật tử thử nghĩ xuất gia như vậy, thì làm sao tiêu hao của Đàn na tín thí dâng cúng? Tự mình đã không được lợi ích nói chi đến chuyện giáo hóa hướng dẫn người khác tu hành. Mà giả như có đi chăng nữa, thì cũng không đúng với lời Phật Tổ đã chỉ dạy. Bởi thế, nên Tổ Quy Sơn mới khuyên nhắc: "Khả tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thố hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ". Nghĩa là: "Đáng tiếc một đời luống qua, sau rồi ăn năn không kịp. Giáo lý chưa từng để lòng, đạo huyền nhân đâu khế ngộ?". Người tuổi đã cao, thì tránh sao cho khỏi: thân thể bạt nhược, tứ chi uể oải, mắt mờ tai lãng, ngồi lâu mệt mỏi, nhớ trước quên sau... thử hỏi như thế thì làm sao học hỏi? Người xuất gia đâu phải vào chùa chỉ để làm công quả không thôi. Nếu thế, thì cần gì phải xuất gia ở chùa. Biết bao người họ đến chùa làm công quả mà họ đâu cần phải xuất gia ở chùa. Nếu họ thật tâm giúp cho chùa bằng cái tâm hỷ xả, vô chấp, vô cầu, thì phước đức của họ cũng rất là lớn lao vậy.

 

2. Phật tử lại hỏi: "Sau nầy nếu như Phật tử bị bệnh đau yếu không còn làm việc chùa được nữa, Phật tử có phải trở về nhà không?" Qua câu hỏi nầy, rõ ràng Phật tử nghĩ là xuất gia vào chùa chỉ để làm công việc giúp cho chùa, đến khi không còn sức khỏe làm việc được nữa, thì có nên trở về nhà không? Như trên, tôi đã nói, nếu xuất gia mà tâm nguyện chỉ nhỏ hẹp như thế, thì tốt hơn hết, theo tôi, Phật tử nên ở nhà gắng công chuyên cần tu hành niệm Phật để cầu vãng sanh Cực lạc. Bởi Phật tử lo sợ khi mạnh thì làm việc giúp cho chùa, đến khi ngã bệnh đau yếu thì chỉ gây thêm gánh nặng phiền toái cho nhà chùa. Với tình trạng của các chùa hiện nay ở Úc, việc lo sợ của Phật tử cũng không phải là vô lý. Bởi chư Tăng, Ni ở trong chùa có rất nhiều công việc Phật sự cần phải làm, đâu có thời giờ rảnh rỗi để lo chăm sóc cho Phật tử. Vả lại, ở xứ nầy, nếu bị bệnh nặng hoặc nan y thì bệnh nhân phải vào bệnh viện điều trị, và sau đó thì phải trở về nhà hoặc vào viện dưỡng lão để cho người nhà hoặc các y tá  tiếp tục chăm sóc.

 

3. Điều mà Phật tử nghe người nào đó nói quả đúng như vậy. Tuy nhiên, không phải ai cũng như vậy hết, ngoại trừ, nếu căn bệnh của người đó kéo dài cần phải có người cận kề chăm sóc. Trường hợp nầy tất nhiên là phải về nhà để dưỡng bệnh thôi. Hiện nay trong các chùa chưa có người nào phát tâm tình nguyện làm việc thiện nguyện nầy. Vì chùa cũng không có đủ phương tiện cho việc trị liệu chăm sóc. Chính vì vậy, nên tôi khuyên Phật tử cần phải suy xét thật cẩn thận, trước khi thực hiện ý nguyện. Vì Phật tử đã hỏi, nên tôi thành tâm góp chút ý mọn với Phật tử, chớ tuyệt nhiên, tôi không dám có cái ý ngăn cản tâm nguyện xuất gia của Phật tử đâu. Xin Phật tử hiểu và thông cảm cho.

 

Kính chúc Phật tử luôn được an khỏe tinh tấn niệm Phật, chóng được kết quả tốt đẹp như ý muốn.

 

 27. Khi gặp khó khăn rắc rối trong đời sống thì đổ trút hết cho nghiệp quả.

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, thông thường khi gặp việc khó khăn rắc rối không may trong đời sống, thì người ta lại đổ thừa trút hết cho nghiệp quả, tại, bị nghiệp thế nầy, thế kia nên mới phải chịu như vậy. Vậy nghiệp là gì mà khiến cho người ta đảo điên như vậy? Và tại sao phải đổ thừa cho nghiệp?

 

Đáp: Sự có mặt của con người ở cõi đời nầy là kết quả của nghiệp nhân đã gây tạo từ trong quá khứ. Cái báo thân mà chúng ta đang mang đây là tiếp nối của nghiệp quả đời trước và đồng thời cũng đang gây tạo nghiệp nhân trong đời nầy và đời sau. Như vậy, cái thân nầy là vừa trả cái nghiệp cũ đời trước mà cũng vừa gây tạo thêm nghiệp mới trong hiện tại và tương lai. Theo luật nhân quả, khi chúng ta đã gây ra nghiệp lành hay dữ thì sớm muộn gì cũng đều phải trả. Kinh nói: "Giả sử bá thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ". Nghĩa là, dù trải qua trăm ngàn kiếp, chỗ tạo nghiệp của mình không có mất, khi nhân duyên đến rồi, quả báo phải chịu trả mà thôi. Sách Nho cũng có câu: "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi viễn tẩu dã nan tàng, hành tàng hư thiệt tự gia tri, họa phước nhơn do cánh vấn thùy, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì". Nghĩa là, làm lành hay làm dữ cuối cùng rồi cũng phải trả, đừng có hòng cao bay xa chạy mà tránh khỏi. Hành động của mình giả dối hay chân thật thì tự mình biết, họa hay phước cũng đừng có hỏi ai, nó chỉ đến với mình sớm hay muộn mà thôi. Đã thế, thì sao gọi là đổ thừa hay trút hết cho nghiệp? Đã có vay thì phải có trả. Điều đó là lẽ tất nhiên. Bởi nhân quả báo ứng là một chân lý phổ biến trùm khắp cả vũ trụ không vật nào thoát khỏi.

 

Phật tử hỏi: Nghiệp là gì mà khiến cho người ta đảo điên như vậy? Và tại sao phải đổ thừa cho nghiệp?

 

Vấn đề nhân quả nghiệp báo chúng tôi cũng đã có trả lời qua một vài câu hỏi trong 100 câu hỏi Phật Pháp tập 2. Phật tử muốn biết rõ hơn về vấn đề nầy thì nên xem lại quyển sách đó. Ở đây, tôi không muốn lặp lại nhiều những gì đã giải thích. Tuy nhiên, Phật tử đã hỏi thì tôi cũng xin trả lời một cách đại khái như sau:

 

Nghiệp, không có gì là viễn vông mơ hồ huyền hoặc khó hiểu, mà nó rất thực tế chi phối cả đời sống của chúng ta. Nghiệp nguyên tiếng Phạn là Karma, Trung Hoa dịch là nghiệp, tiếng việt gọi là hành động tạo tác được lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Nghiệp còn có các tên gọi khác như: tập khí, chủng tử v.v... Đã là thói quen, tất nhiên, nó có thói quen tốt và thói quen xấu. Nói cách khác là nghiệp lành hoặc nghiệp dữ. Động cơ tạo thành thói quen lành, dữ, tốt, xấu là do ba nghiệp: "Thân, Ngữ, Ý". Chính do ba chỗ tạo thành thói quen nầy mà đời sống của chúng ta có những biến đổi xấu, tốt, lành, dữ khác nhau. Nếu tạo thành thói quen tốt thì kết thành quả báo tốt. Ngược lại, nếu chúng ta gây nghiệp xấu ác, thì chúng ta phải lãnh lấy quả báo xấu ác. Phải chịu nhiều điêu đứng thất điên bát đảo như Phật tử đã nói.

 

Thói quen là do chính chúng ta gây ra và nó trở lại có một sức mạnh phi thường (nghiệp lực) lôi cuốn chi phối đời sống của chúng ta. Như thói quen cờ bạc, rượu chè, hút xách, chơi bời đàn điếm v.v... khi những thói quen nầy đã trở thành ghiền nặng rồi thì gây cho ta lắm điều đau khổ hệ lụy. Không những đau khổ cho bản thân mình mà còn gây họa hại cho gia đình và xã hội nữa. Trong nhà Phật có nêu ra hai loại thói quen: cũ và mới. Thói quen cũ lâu đời (căn bản chủng tử) nó có gốc rễ sâu xa thật khó trừ khó đoạn. Như những thói quen tham, sân, si, mạn, nghi v.v... Những thói quen nầy chúng có một sức mạnh phi thường làm chủ chi phối đời ta. Nếu nghe theo mệnh lệnh của nó sai khiến thì, chúng ta tạo ra vô số nghiệp ác. Từ đó, chúng ta phải bị trầm luân sa đọa thọ khổ.

 

Thói quen mới (tân huân chủng tử) đây là những thói quen do ta bị ảnh hưởng bởi môi trường xã hội mà chúng ta đang sống. Tục ngữ có câu: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Nếu ảnh hưởng bởi môi trường tốt thì, chúng ta có những thói quen lành mạnh tốt. Như thói quen đọc sách, thể dục, thể thao, từ thiện, đi chùa, bố thí, cúng dường, lạy Phật, tụng Kinh, niệm Phật v.v... Do chúng ta huân tập những thói quen tốt nầy lâu ngày, nó trở thành có một sức mạnh rất lớn. Chính nó là nguyên động lực thúc đẩy dẫn dắt đời ta đi trên con đường giác ngộ hành thiện. Kết quả nó sẽ mang đến cho ta nhiều điều tốt đẹp trong hiện tại và mai sau.

 

Nói tóm lại, nghiệp quả là do chúng ta gây ra và chúng ta phải chịu trách nhiệm nhận lấy, không đổ thừa đổ tháo cho ai cả. "Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa" (Truyện Kiều).

 

Tại sao phải đổ thừa cho nghiệp? Đổ thừa là một căn bệnh phổ thông triền miên của con người. Không ai chịu nhận lấy trách nhiệm về mình. Dù mình gây ra tội lỗi đầy trời nhưng cũng không bao giờ chịu nhận lấy. Thường thì hễ cái gì có lợi, tốt đẹp là cái đó thuộc về mình, còn cái gì xấu xa bất lợi thì đổ thừa cho kẻ khác. Những hành động sai trái khi việc đó xảy ra thì, người ta hay đổ thừa trút hết cho nghiệp. Nếu nhìn hạn cuộc những việc xảy ra trong hiện tại, thì đây quả là một cách chạy tội không dám nhìn nhận cái kết quả do chính hành động bất thiện của mình gây ra. Tuy nhiên, nếu nhìn bằng cặp mắt nhân quả báo ứng xuyên suốt qua ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai thì, chúng ta sẽ có một cách nhìn khác. Trên đời, không có một việc gì xảy ra mà không có cái nguyên nhân của nó. Nếu không có lửa thì làm sao có khói? Nhìn khói là ta biết có lửa. Nhìn quả là ta biết có nhân. Nếu không có nghiệp nhân thì không bao giờ có nghiệp quả. Không gieo hạt ớt thì làm sao có trái ớt? Đó là nói theo nguyên tắc luật định của nhân quả. Tuy nhiên, nếu nói một cách nghiêm khắc tỉ mỉ hơn thì, chỉ có một hạt ớt đơn thuần không thể nào tạo thành có trái ớt được. Mà nó còn đòi hỏi nhiều yếu tố trợ duyên tốt khác nữa. Bởi nhân quả được đặt định trên chiều thời gian. Cho nên việc đổ thừa cho nghiệp cũng không hẳn là hoàn toàn vô lý. Có những nghiệp nhân gây ra vì trải qua thời gian lâu xa nên chúng ta không biết, nay đến thời điểm chín mùi tất nhiên là ta phải nhận lấy. Duy Biểu học gọi đây là quả Dị thục.

 

Việc đổ thừa cho nghiệp mới nghe qua như là một cách chạy tội, không dám nhận lãnh hành động xấu ác hay nghiệp quả do chính mình gây ra, nhưng xét cho kỹ thì đó là một sự thật. Điều đáng nói và đáng trách ở đây là, những gì mà mình đã gây ra, dám làm thì phải dám chịu, phải can đảm thành thật mà nhận lấy trách nhiệm, quyết không đổ thừa đổ trút cho ai cả. Có thế, thì mình mới ăn năn hối cải và quyết tâm vươn lên làm mới lại cuộc đời. Đó không phải là hành động khiếp nhược mà là hành động dũng mãnh cang cường có ý thức. Không phải đổ thừa cho nghiệp rồi mình buông xuôi tới đâu hay đó. Mà mình có thể chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt và quyết không đầu hàng buông xuôi theo nghiệp. Không khéo là chúng ta rơi vào chủ thuyết Định mệnh phó mặc cho Định mệnh an bày. Nghiệp, trong đạo Phật không chấp nhận và cho phép chúng ta phải phó mặc buông xuôi như thế.

 

Kính chúc Phật tử hành động sáng suốt theo lý nhân quả để có được một cuộc sống tràn đầy an lạc hạnh phúc.

 

28. Đã giết hại sinh vật nay phóng sanh có bù trừ hết tội không?

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, nếu như trước kia con đã lỡ giết gà, giết vịt, bây giờ mua chim hay con vật nào đó để phóng sanh. Như vậy có bù đắp hết cái tội mình giết hại sinh vật không? Bởi con nghe có người nói, nếu mình phóng thích một con chim, là trừ một con gà lúc trước mình làm thịt, đỡ tội một con. Người nói như vậy có đúng không? Kính mong thầy hoan hỷ giải đáp cho con hiểu.

 

Đáp: Căn cứ theo luật nhân quả đã có vay tất phải có trả. Tuy nhiên, việc trả quả còn có nặng, nhẹ khác nhau, tùy theo nghiệp nhân mà mình đã gây tạo. Xét về nghiệp sát sanh hại vật, trong Kinh có nêu ra ba cách giết: Tự mình giết hại, hoặc bảo hay xúi giục người khác giết hại, hoặc thấy người khác giết một sinh vật nào đó rồi mình a dua vui theo. Cũng có những trường hợp hoặc là cố sát hay vô tình. Nếu cố tâm sát hại chúng sanh thì phải trả quả báo nặng. Nếu vô tình lỡ gây ra sát hại, vì một hoàn cảnh bất khả kháng nào đó, mà không thể cưỡng lại, thì thọ quả báo nhẹ hơn.

 

Trường hợp của Phật tử như Phật tử đã nói là đã lỡ giết gà, giết vịt, lỡ giết chớ không phải là cố ý giết, theo luật Phật dạy, tội lỗi nầy nhẹ, phải thành tâm sám hối thì sẽ hết tội. Tuy nhiên, việc Phật tử mãi vật phóng sanh là điều rất tốt. Nhưng không phải vì thế mà có thể đền bù lại những tội lỗi giết hại trước kia mà Phật tử đã gây ra. Luật nhân quả không có vấn đề đền bù hay thay thế. Ai ăn nấy no, ai học nấy biết chữ. Ai gây người đó trả. Không ai có thể thay thế hay đền bù cho ai được. Việc phóng sanh là Phật tử có phước. Như trên chúng tôi đã có nói rõ về ý nghĩa của việc phóng sanh nầy. Phóng sanh là một hành động tích cực hành thiện phước báo vô lượng. Cứu một mạng sống thì phước không gì bằng. "Dẫu xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người". Không phải mình phóng thích một con chim mà trừ đi một con gà xưa kia mình đã giết. Con vật nào đều có mạng sống riêng của con vật đó. Không thể thả con nầy mà thay thế tội giết hại con kia. Nếu thế thì luật nhân quả trả vay không công bằng. Còn người nào đó nói như thế là vì họ chưa hiểu rõ luật nhân quả. Nếu vì chưa hiểu thì nên tìm hiểu cho rõ, chớ đừng có nói càng bướng như vậy gây cho người khác hiểu lầm mà phải mang trọng tội! Đây là một trọng tội vì phá hoại luật nhân quả. Xưa kia, có một vị Tăng, vì nói sai một câu nói về luật nhân quả mà phải bị đọa năm trăm kiếp làm chồn. Có người hỏi: "Bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả không?" Ông trả lời là không rơi vào nhân quả. Do câu trả lời nầy mà Ông phải chịu quả báo đau khổ trải qua thời gian rất lâu xa. Cho nên, chúng ta phải cẩn thận ở nơi lời nói. Điều gì mình chưa biết, chưa hiểu, thì nên cố gắng tìm hiểu học hỏi. Nói sai một ly sẽ đi ngàn dặm. Hại mình đã đành mà còn gây tổn hại cho người khác nữa. Là Phật tử chúng ta nên ý thức cẩn thận và tránh xa điều đó.

 

Tóm lại, việc giết hại sinh vật dù dưới bất cứ hình thức nào cũng đều có tội cả. Tuy nhiên, tùy theo cường độ giết hại do cố tình hay vô tình mà tội lỗi gây ra có nặng nhẹ khác nhau. Nhưng dù nặng hay nhẹ cũng đều là có tội cả. Đã có tội thì phải nên thành tâm sám hối. Tội nặng sẽ chuyển thành tội nhẹ. Còn tội nhẹ, thì sẽ được tiêu trừ. Còn việc phóng sanh đó là có phước. Phước nầy Phật tử sẽ hưởng trong hiện đời và đời sau. Có phước thì hưởng, có tội thì phải trả, không thể cái nầy đền bù thay thế cho cái kia được. Mình gieo xuống đất hạt giống nào thì nó sẽ mọc lên hạt giống đó. Không thể gieo hạt giống cải mà lên hạt ớt được. Nhân nào quả nấy là thế.

 

Kính mong Phật tử ý thức đến luật nhân quả mà cố gắng gia công hành thiện tích phước làm lợi ích cho mình và người vậy.

 

29. Niệm Phật lớn tiếng và niệm Phật nhỏ tiếng hoặc niệm thầm, công đức có bằng nhau không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con có nghe nói mình niệm Phật lớn tiếng thì công đức sẽ nhiều hơn là niệm nhỏ tiếng và niệm Phật nhỏ tiếng thì công đức lại lớn hơn niệm thầm. Con không biết điều nói đó có đúng như vậy không? Kính mong thầy giải đáp cho chúng con hiểu. Thành kính cảm ơn thầy.

 

Đáp: Nếu nói một cách tổng quát thì, niệm Phật bằng cách nào cũng đều có công đức cả. Tuy nhiên, với điều kiện là hành giả phải nhiếp tâm thiết thiệt niệm Phật. Trong Kinh có nêu ra bốn cách niệm Phật: Cao thinh niệm (niệm Phật lớn tiếng), đê thinh niệm (niệm Phật nhỏ tiếng), kim cang niệm (niệm Phật se sẽ ở môi) mặc niệm (niệm Phật thầm ở trong tâm). Bốn cách nầy tùy hành giả linh động uyển chuyển mà có thể thay đổi. Theo kinh nghiệm của chư Tổ thì:

 

- Cách niệm Phật thứ nhứt, là hành giả niệm lớn tiếng lâu thì dễ bị tổn hơi và mau mệt, nhất là người trọng tuổi. Tuy nhiên, nó được cái lợi là dễ trừ được vọng niệm và bệnh hôn trầm ngủ gục. Vì khi niệm lớn tiếng, miệng niệm, tai nghe, chú tâm theo dõi nên nó lấn át được vọng niệm. Vọng niệm khó phát sanh. Đây cũng chỉ là một phương tiện khác nào như lấy đá đè cỏ thôi.

 

- Cách niệm thứ hai, là hành giả niệm Phật nhỏ tiếng. Cách niệm Phật nầy được cái lợi là ít bị tổn hơi và có thể niệm được lâu hơn. Nhưng vọng niệm cũng dễ xen vào.

 

- Cách niệm thứ ba, là hành giả áp dụng kim cang niệm. Nghĩa là chỉ niệm se sẽ ở môi. Cách niệm Phật nầy tuy không bị tổn hơi có thể niệm được lâu mà không cảm thấy mệt mỏi. Thế nhưng, nó có cái bất lợi là dễ bị hôn trầm, tức dễ ngủ gục.

 

- Cách niệm thứ tư, là hành giả chỉ niệm thầm trong tâm. Cách niệm Phật nầy chỉ có tự mình biết và được cái lợi là niệm được trong tất cả thời gian và nơi chốn. Không có hạn cuộc vào bất cứ nơi đâu. Trong tứ oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm đều niệm Phật được cả. Tuy nhiên, cách niệm Phật nầy hành giả phải dụng công tế nhị miên mật lâu ngày mới thành thói quen thuần thục được. Cách niệm Phật nầy, hành giả dễ mau được nhứt tâm hơn. Nhưng nó cũng dễ bị tán loạn lắm. Chỉ cần lơ là xao lãng một chút là vọng tưởng xen vào hoặc phóng tâm. Vì thế hành giả phải chú tâm lắm mới được.

 

Nói tóm lại, bốn cách niệm Phật trên, trong khi ứng dụng thì hành giả có thể tùy nghi linh động mà thay đổi cho thích hợp miễn sao tâm hành giả được an định là tốt.

 

Còn nói niệm Phật lớn tiếng thì có công đức nhiều hơn nhỏ tiếng và nhỏ tiếng thì công đức nhiều hơn niệm thầm v.v... Trước hết, thiết nghĩ, chúng ta cũng nên hiểu công đức là gì? Công đức theo đức Lục Tổ Huệ Năng nói trong Kinh Pháp Bảo Đàn thì, công đức là cái đức bên trong do diệt trừ phiền não mà có. Còn phước đức là cái đức bên ngoài do bố thí cúng dường mà được. Như vậy công đức và phước đức tuy có khác trên hành tướng, nhưng cả hai đều phải tu. Tuy nhiên, công đức bao giờ cũng quan trọng hơn. Mục đích của việc niệm Phật là cốt để tiêu trừ phiền não. Nếu niệm Phật mà phiền não không giảm bớt thì đó là niệm sai, không đúng với chủ đích của việc niệm Phật. Như vậy trong lúc hành giả niệm Phật đều có lợi cả hai: "Công đức và phước đức". Công đức là nhờ chú tâm vào câu hiệu Phật mà vọng niệm phiền não không phát sanh. Phước đức là do ba nghiệp thân, miệng, ý, trong lúc niệm Phật được thanh tịnh mà có. Như vậy, niệm Phật bằng cách nào mà phiền não vơi đi, tâm hành giả được an định sáng suốt thì, đó là hành giả niệm Phật đúng cách. Còn nếu bảo niệm Phật lớn tiếng thì có công đức nhiều hơn các cách kia, theo tôi, người nói như thế thì không được đúng lắm. không biết họ căn cứ vào đâu mà nói như thế? Tuy  trong Kinh có nói, niệm Phật lớn tiếng có mười công đức, nhưng không có nói là công đức nhiều hơn các cách niệm Phật khác. Không lẽ do niệm lớn tiếng bị hao hơi phí sức là có công đức nhiều hơn sao? Nếu niệm Phật lớn tiếng mà trong tâm thì nhớ nghĩ lung tung, không dính dáng gì đến câu hiệu Phật đang niệm cả, thử hỏi niệm như thế, có được công đức gì không? Vì niệm bằng cái tâm tán loạn thì công đức ở chỗ nào? Còn nếu niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm mà hành giả được nhiếp tâm an định, vọng niệm không phát sanh, như vậy là công đức ít hơn niệm lớn tiếng chăng?

 

Tóm lại, niệm Phật có công đức nhiều hay ít, là do ở nơi tâm của hành giả có được an định hay không an định. Nếu hành giả chí thành tha thiết niệm Phật thì dù niệm bằng cách nào cũng đều có công đức và phước đức cả. Tuy nhiên, như trên đã nói, niệm Phật lớn tiếng thì được cái lợi là dễ trừ được vọng niệm và ít bị hôn trầm. Công đức là ở chỗ đó. Nhưng không phải ai niệm Phật lớn tiếng cũng được như vậy hết đâu. Điều nầy, còn tùy mỗi hành giả do chỗ dụng công tu hành tinh tấn hoặc giải đãi, chánh niệm hoặc thất niệm ... mà có ra sự khác biệt.

 

Kính chúc Phật tử luôn được dồi dào sức khỏe, tinh cần niệm Phật mau được thành tựu nhứt tâm bất loạn.

 

30. Vì bảo vệ sức khỏe nên phải dùng thuốc giết chuột như thế có tội không?

 

Hỏi:  Bạch thầy, nhà con có một con chuột, hằng đêm nó chạy sục sạo con không ngủ được. Và vì muốn bảo vệ sức khỏe chung cho gia đình, con sợ nó bò vô đồ ăn, nên con mua thuốc để cho nó ăn. Nếu nó chết, con có bị phạm tội sát sanh không? Mong thầy giải đáp cho con được rõ, con rất lo sợ. Con xin cảm niệm ơn thầy.

 

Đáp: Sống ở đời thật khó bảo vệ được lưỡng toàn lợi lạc cho cả hai. Mọi sinh hoạt cho nhu cầu sự sống, tất cả cũng chỉ vì mình. Cái gì có lợi cho mình thì được. Hễ mình được thì kẻ khác phải mất. Mình thắng thì người khác phải thua. Khôn sống dại chết, mạnh được yếu thua. Đó là luật tắc của sự sống xưa nay. Nói thế, để thấy rằng, vì muốn bảo vệ sức khỏe cho Phật tử và gia đình, nên Phật tử phải mua thuốc chuột để thuốc cho nó chết. Phật tử hỏi như thế có phạm tội sát sanh không? Đã giết một sinh vật bằng cái tâm cố sát thì thử hỏi làm sao tránh khỏi tội báo? Nếu Phật tử hành động như thế, thì phải chấp nhận tội lỗi quả báo. Theo luật nhân quả đã có vay thì phải có trả. Đã giết một mạng sống, dù mạng sống đó nhỏ như con chuột cũng phải trả quả mà thôi. Bởi muôn loài dù lớn hay nhỏ tất cả cũng đều có mạng sống và quý trọng mạng sống như nhau. Chính vì thế, nên trong năm giới cấm Phật chế cho người Phật tử tại gia giữ gìn thì, giới không sát sanh hại vật là đứng đầu. Năm giới cấm còn được gọi là năm nguyên lý đạo đức nhân bản của con người. Tôn trọng và bảo vệ sự sống đó là theo lẽ công bằng. Mỗi loài tuy có mỗi nghiệp thức khác nhau, nhưng không có loài nào mà không ham sống sợ chết. Suy bụng ta ra bụng người, mình biết ham sống thì người khác hay loài vật khác cũng đều như thế. Vì bảo vệ cung phụng sự sống của mình nên người ta không chút từ tâm nỡ ra tay giết hại các loài động vật khác để ăn. Nhưng người ta quên rằng: "Ngỡ rằng ngon miệng béo thân, nào ngờ oan nghiệt xoay vần trả vay".

 

Trở lại vấn đề trên, Phật tử rất lo sợ hành động giết con chuột sẽ bị trả quả báo. Khi đã giết, Phật tử dù có lo sợ thì quả báo cũng không thể tránh khỏi. Nếu Phật tử đã hối hận việc sát hại của mình, thì không có cách nào hơn là Phật tử phải thành tâm sám hối. Đồng thời Phật tử có làm được công đức hay phước đức gì thì nên hồi hướng cầu nguyện cho nó chóng được siêu thoát. Việc làm nầy Phật tử vừa có thêm lợi lạc cho mình và cũng vừa lợi lạc cho những sinh linh mà mình đã giết hại. Hơn là Phật tử cứ mãi băn khoăn lo sợ thì thử hỏi có được lợi ích gì? Thay vì lo sợ Phật tử nên cố gắng tích cực hành thiện như bố thí hay mãi vật phóng sanh thì Phật tử sẽ được lợi lạc có thêm nhiều phước đức hơn. Mình giết một con vật mà cứu sống được nhiều con vật, thì những con vật đó đội ơn lòng tốt của Phật tử biết bao.

 

Lần sau, tôi xin đề nghị với Phật tử thay vì thuốc nó chết, thì mình có thể mua một loại thuốc nào đó mà khi chúng nó nghe mùi thuốc chịu không nổi chúng nó phải bỏ đi chỗ khác thôi. Như vậy là Phật tử tránh được cái tội sát hại sinh vật vậy.

 

Kính chúc Phật tử và gia đình luôn có được niềm an vui hạnh phúc trong cuộc sống.

 

31. Sự tôn thờ khác tôn giáo trong nhà có nên không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con có một thắc mắc ưu tư mà lâu nay con cảm thấy hơi khó chịu. Vì trong gia đình con có sự khác biệt tôn giáo, có người theo đạo Công giáo, có người theo Phật giáo và có người chỉ biết thờ cúng ông bà, họ nói là theo đạo ông bà. Vì lý do đó, nên trong nhà có nhiều bàn thờ khác nhau. Con thì thờ Phật, người nhà của con thì thờ đức Mẹ. Nghĩa là hai bàn thờ khác nhau. Nhưng không hiểu sao có người đến nhà con, thì họ nói không nên thờ như thế. Vì không thể thờ hai vị giáo chủ như vậy được, tức là có hai giáo hội tương phản nhau. Vì thế, nên con rất băn khoăn thắc mắc không biết thờ như vậy có đúng không? Và có lỗi gì sai trái không? Kính xin thầy cho con ý kiến làm thế nào mới đúng.

 

Đáp:  Trước hết xin được minh định chánh danh. Tôi xin đề nghị với Phật tử không nên dùng hai chữ "Công giáo" mà nên dùng từ ngữ Thiên Chúa giáo hay Gia Tô giáo hoặc Ky Tô giáo thì có lẽ đúng hơn. Bởi hai chữ Công giáo chỉ thấy phát nguyên từ thời chế độ Đệ nhất cộng hòa do Ông Ngô Đình Diệm cai trị mới sử dụng. Vì Ông cho rằng, chỉ có đạo Thiên Chúa mới là tôn giáo chung cho mọi người. Điều nầy là trái với truyền thống của các tôn giáo hoặc đạo giáo có mặt lâu đời khác trên đất nước Việt Nam, nhất là truyền thống lâu đời của đạo Phật. Lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy rất rõ điều đó. Gọi như thế là không tôn trọng truyền thống của các tôn giáo khác.

 

Sự khác biệt tôn giáo trong gia đình, đó là chuyện bình thường không có gì đáng nói. Đó là quyền tự do chọn lựa theo niềm tin của mỗi người. Điều quan trọng đáng nói ở đây là, những người khác tín ngưỡng tôn giáo ở trong một gia đình như Phật tử đã nói, có được hòa thuận, yêu thương, cảm thông và tôn trọng niềm tin tôn giáo cùng việc thờ cúng với nhau hay không? Và việc thờ cúng trong nhà có gì lấn cấn xảy ra không tốt đẹp hay không? Nếu như những việc nầy không có xảy ra thì Phật tử đâu cần phải quan tâm đến những gì mà người khác đã nói. Có thể những người thân trong gia đình của Phật tử vì một hoàn cảnh hay lý do đặc biệt nào đó nên mới có việc tin theo và thờ phụng như thế. Chỉ vì Phật tử không muốn nói rõ ra đó thôi. Còn việc người nào đó nói như thế, đó là theo quan niệm khách quan của họ. Vì họ thấy Phật tử thờ cúng như vậy có hơi lạ mắt. Thật ra, vì chúng ta còn sống trong vòng nghiệp thức tương đối, nên cái nhìn của chúng ta còn bị hạn cuộc cục bộ trong sự phân biệt hình tướng khác nhau. Mỗi tôn giáo tuy có khác biệt về một số lễ nghi hình thức cũng như phẩm chất và phương tiện hành trì, nhưng luận đến chỗ cứu cánh thì không có gì sai khác. Phật hay Chúa gì cũng cùng có chung một bản thể mà thôi. Điều quan trọng, là sự khác biệt đó trong gia đình của Phật tử có gì tranh cãi hơn thua chấp nhứt với nhau không? Nếu có, thì điều đó không nên. Đừng vì niềm tin của mình mà công kích chê bai niềm tin của kẻ khác. Đã thế, thì Phật và Chúa nhìn thấy cảnh tượng đó chắc chắn là các Ngài cảm thấy xót xa đau lòng lắm! Ngược lại, nếu mọi việc đều êm xuôi diễn tiến tốt đẹp, theo tôi, thì Phật tử không có gì phải bận tâm băn khoăn thắc mắc cả. Điều quan trọng là ở nơi mình và gia đình mình chớ không phải ở nơi người khác. Tại sao mình phải quan tâm đến người khác nói mà không chịu nhìn lại mình? Nếu mình xét thấy không có gì sai trái lỗi lầm thì thôi.

 

Tóm lại, việc thờ phụng của Phật tử cũng không có gì lỗi lầm sai trái. Chỉ sai trái là đừng vì chỗ khác niềm tin hay thờ cúng mà gây ra sự bất hòa cãi vã tranh chấp với nhau làm mất đi tình thân thương hòa khí thuận thảo trong gia đình. Đó là điều nên tránh đừng để cho sự việc đó xảy ra không tốt đẹp. Mọi người cần phải tôn trọng niềm tin và việc thờ cúng với nhau, vì đó là tín ngưỡng thiêng liêng của mỗi người vậy.

 

Kính chúc Phật tử luôn sống trong tinh thần Phật dạy giữ sự hòa khí yêu thương, thông cảm và hỷ xả, vạn sự đều an lành tốt đẹp.

 

32. Niệm Phật và trì thêm chú cũng như quỳ lạy Phật có lỗi không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, trong nhà con có thờ Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di Đà và Bồ Tát Quan Thế Âm. Mỗi sáng con tụng kinh niệm Phật, sau nầy con có niệm thêm chú của Phật Dược Sư để cầu cho tiêu trừ bệnh tật. Bạch thầy như thế có được không? Chân và tim con đau, nên con chỉ quỳ lạy Phật có được không? Đồng thời, lúc nào chân đau nhiều thì con đứng lên đi kinh hành ở ngoài vườn và chỉ niệm Phật nhỏ tiếng, như thế có được không? Kính mong thầy từ bi chỉ dạy cho con làm sao mới đúng?

 

Đáp: Việc tụng kinh, niệm Phật của Phật tử như thế là điều rất tốt, tôi xin hết lòng tùy hỷ tán dương công đức. Phật tử nói, sau nầy Phật tử có trì thêm Chú Dược Sư để nguyện cầu tiêu trừ tật bệnh, điều đó cũng không có gì là sai trái. Tụng kinh, niệm Phật, trì Chú, đó là điều căn bản mà bất cứ người Phật tử nào thiết tha trong việc tu hành cũng đều phải hành trì. Tuy nhiên, theo lời Phật Tổ dạy, trong khi tu tập, chúng ta nên chọn cho mình một pháp môn chánh để hành trì. Vì có chuyên nhất thì tâm ta mới dễ được an định hơn. Như Phật tử chọn niệm danh hiệu Phật A Di Đà là phần chánh yếu, còn tụng kinh hay trì chú chỉ là phần phụ thuộc. Thường thì Phật tử chúng ta phần nhiều là  tạp tu hơn là chuyên tu. Tạp tu là pháp môn nào cũng tu hết. Thiền, Tịnh, luật, mật, giáo v.v... đều tu cả. Như niệm Phật cũng muốn niệm nhiều danh hiệu Phật. Vì Phật tử nghĩ rằng niệm nhiều vị Phật thì được phước nhiều. Do đó, mà sự tu tập của chúng ta khó đạt được kết quả mau chóng.

 

 Theo lời Phật Tổ dạy, chỉ cần niệm một câu danh hiệu Phật A Di Đà là tóm thâu đầy đủ tất cả. Bởi danh hiệu Phật A Di Đà còn có nghĩa là Vô lượng công đức. Người đời thường nói: "Nhất nghệ tinh nhất thân vinh". Chỉ cần chuyên làm một nghề thì nó mới tinh thuần xuất sắc và đạt hiệu quả cao. Còn làm nhiều nghề quá thì vừa cực thân xác mà kết quả cũng chẳng đạt là bao. Vì vậy, muốn đạt được kết quả cao, thì Phật Tổ khuyên chúng ta nên chọn cho mình một pháp môn tu tập thuần nhất không tạp, tùy theo căn cơ trình độ sở thích của mình mà chuyên hành trì. Bởi chúng sanh có nhiều căn cơ chủng tánh khác nhau, nên Phật mới nói ra có nhiều pháp môn sai biệt. Nhưng pháp môn nào cũng nhắm thẳng đến tiêu đích giác ngộ và giải thoát cả. Đó là một lộ trình duy nhất mà tất cả hành giả tu Phật đều phải trải qua.  

 

Trở lại câu hỏi của Phật tử, Phật tử hỏi: Mỗi sáng Phật tử tụng Kinh niệm Phật, sau nầy Phật tử có niệm thêm Chú Dược Sư để cầu cho tiêu trừ bệnh tật, như thế có được không?

 

Xin thưa ngay là được, không có gì sai trái. Phật tử cứ yên tâm mà nỗ lực hành trì. Tuy nhiên, tôi thành thật khuyên Phật tử nên ý thức và nhận định cho thật rõ: việc cầu nguyện Phật lực gia hộ, cho được tiêu trừ tật bệnh, đó là điều rất tốt nên làm. Thế nhưng, không phải vì sự cầu nguyện đó mà Phật tử sanh tâm ỷ lại hoàn toàn ở nơi Phật và Bồ tát gia hộ. Bởi Phật, Bồ tát chỉ gia trì khi nào mình phải hết lòng thành tâm tha thiết tu niệm. Bệnh tật là kết quả do nghiệp nhân sát sanh hại vật của mình trong nhiều đời hoặc hiện đời mà ra. Do đó nên hôm nay mình mới nhận lấy quả báo bệnh tật khổ đau. Tùy theo nghiệp nhân sát hại nặng nhẹ mà trả cái quả báo nặng nhẹ khác nhau. Nhẹ thì sám hối mau hết tội, còn nặng thì phải trả quả báo nặng hơn. Nếu mình biết sám hối, tu hành tạo thêm nhiều phước đức thì sẽ chuyển nghiệp báo nặng thành nghiệp báo nhẹ. Nhưng dù nặng hay nhẹ gì cũng đều phải trả. Đó là luật nhân quả báo ứng rất công bằng một mảy may không hề sai chạy.

 

 Có người tụng Kinh, niệm Phật không phải để dứt trừ phiền não, mau được giải thoát, mà họ chỉ muốn van xin cầu khẩn Phật, Bồ tát ban cho họ cái nầy cái kia. Nếu họ được toại nguyện, thì họ cho Phật, Bồ tát rất linh thiêng, bằng trái lại, thì họ cho các Ngài là không linh. Đó là một quan niệm rất sai lầm mà người Phật tử nên tránh. Thay vì tụng Kinh, niệm Phật, trì Chú để cho tâm ta được an định thì chúng ta lại mong cầu đòi hỏi Phật Bồ tát ban cho đủ thứ.  Phật và Bồ tát các Ngài cũng phải nỗ lực chuyên cần tu tập trải qua nhiều gian khổ mới được thành tựu như thế. Chớ các Ngài đâu phải nhờ ai ban cho mà được đâu. Người Phật tử chơn chánh phải có quan niệm và đặt định niềm tin đúng đắn. Tu hành không nên hoàn toàn ỷ lại vào tha nhân, dù đó là Phật hay Bồ tát cũng thế. Tự lực là chánh mà tha lực là phụ. Phải có tự lực mới nhờ tha lực. Tha lực chỉ là phần trợ duyên giúp sức cho mình phần nào thôi. Cũng như mình phải hết lòng tha thiết niệm Phật, khi lâm chung thì Phật và Bồ tát mới tiếp rước mình. Tâm mình có an định thì mới cảm ứng đến tâm Phật.

 

Sự tu hành, niệm Phật cần nhứt là chúng ta phải lập chí bền tâm. Phải có lập trường kiên định dũng mãnh. Nếu Phật tử vì sức khỏe đau yếu, thì khi hành lễ nên tuỳ nghi linh động. Trường hợp Phật tử bị suy tim và chân yếu, đứng lên lạy xuống cảm thấy mệt mỏi đau nhức khó khăn, thì Phật tử quỳ lạy cũng không sao. Lễ nghi hình thức tuy là sự tướng bên ngoài nhưng nó cũng rất quan trọng. Nếu chúng ta chưa được thấy tánh, thì chớ nên khinh thường sự tướng. Người tu hành Sự và Lý phải dung thông, không nên ngăn trệ một bên. Đối với căn cơ trình độ và nghiệp chướng sâu dày của chúng ta, thì chúng ta nên giữ phần sự tướng để tu trì. Như tụng Kinh, trì Chú, lễ bái, niệm Phật v.v... chúng ta phải gia công nỗ lực hành trì. Tuy nhiên, như trên đã nói, chúng ta cần chọn cho mình một pháp môn tu thích hợp để ngày đêm gia công chuyên tâm tu tập. Nhờ đó mà nghiệp chướng chóng tiêu trừ và chóng mau được giác ngộ và giải thoát.

 

Điều quan trọng là trong khi hành trì, chúng ta không nên quá câu nệ vào hình thức mà phải khéo léo uyển chuyển linh động sao cho phù hợp với sức khỏe và hoàn cảnh của mình. Trong khi hành lễ Phật tử cũng cần nên thay đổi những động tác: đi, đứng, quỳ và ngồi cho thích hợp. Việc đi kinh hành và niệm Phật nhỏ tiếng của Phật tử đó là điều rất tốt. Như đã nói, tùy theo sức khỏe của Phật tử mà linh động thay đổi không có gì lỗi lầm sai trái cả. Trong bốn động tác kể trên, Phật tử tùy nghi mà thay đổi. Điều quan trọng trong khi hành lễ là tâm hành giả phải có an lạc, thoải mái, nếu không thì sự thật hành của chúng ta sẽ không đạt được kết quả như ý muốn.

 

Kính chúc Phật tử thân tâm thường an lạc, đạo niệm tinh chuyên, chóng viên thành Phật quả.

 

33. Thờ Phật và treo tượng Phật trong phòng ngủ có được không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con có một vài điều thắc mắc, kính xin thầy hoan hỷ giải đáp dùm con.

1. Có người nói, mình thờ Phật trong phòng ngủ thì dù cho niệm Phật có đúng cách đi nữa cũng không được vãng sanh. Không biết có đúng như vậy không?

2. Trong phòng khách nhà con có thờ Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương, Di Lặc và Phật Dược Sư, HT Tuyên Hóa, từ trái sang phải thứ tự như vậy. Không biết thờ như thế có sai trái gì không?

3. Vì ở phòng khách người nhà và khách tới lui sinh hoạt ồn ào, con không thể tụng niệm an tịnh được, nên con có thiết lập một bàn thờ khác nữa trong phòng ngủ, con hành trì tụng niệm lễ bái rất yên tịnh. Trong phòng ngủ của con có phòng tắm và chỗ thay đồ riêng biệt. Như vậy con có cái lỗi bất kính với Phật không?

4. Con rất thích chiêm ngưỡng hình tượng Phật, Bồ tát, nên trên đầu giường con ngủ có treo các hình tượng Phật và Bồ Tát để con chiêm ngưỡng, không biết như vậy có lỗi lầm gì không?

Con kính xin thầy giải đáp cho con được rõ những điều mà con đã nêu trên. Thành kính cảm ơn thầy nhiều.

 

Đáp: Phật tử đã nêu ra bốn câu hỏi, chúng tôi xin được lần lượt giải đáp qua từng câu hỏi một như sau:

 

1. Trong phòng ngủ mà mình thờ Phật, điều nầy theo các bậc Cổ Đức dạy thì không nên. Lý do, đã nói là phòng ngủ tất nhiên là không được thanh tịnh rồi. Cho nên, khi thờ Phật là chúng ta phải thiết trí một nơi thích hợp thật trang nghiêm thanh tịnh. Tổ Ấn Quang thường răn nhắc, người tu hành phải hết lòng cung kính đối với các bậc Hiền Thánh. Đối với chư Phật và Bồ tát, chúng ta phải hết sức cung kính. Càng cung kính thì ta càng tăng thêm phước đức. Còn tỏ ra khinh thường các Ngài thì chúng ta mang tội rất nặng. Chớ cho là những cốt tượng Phật, giấy mà ta không kính trọng. Bởi đó là những hình tượng tiêu biểu qua những công hạnh đức độ cao tột mà người ta tạc tượng tôn thờ. Vì thế, là Phật tử chúng ta phải hết lòng quy hướng tôn kính các Ngài.

 

Người nào đó cho rằng, nếu mình thờ Phật trong phòng ngủ dù mình niệm Phật có đúng cách đi chăng nữa, thì cũng không được vãng sanh. Lời nói nầy hoàn toàn là không hợp lý. Bởi việc thờ Phật và việc niệm Phật là hai việc khác nhau. Việc thờ Phật là hình thức bên ngoài để chúng ta nương đó mà chiêm ngưỡng hành trì lễ bái. Bởi khi nhìn thấy tượng Phật tướng hảo quang minh, nụ cười hoan hỷ của các Ngài lòng ta cảm thấy an vui thanh thoát nhẹ nhàng, bao nhiêu phiền não đều tiêu tan như mây khói. Tuy nhiên, chỉ trong giây phút đó thôi, chớ không phải suốt cả đời. Đó là nhờ tác động ảnh hưởng bởi tấm lòng quý kính thiết tha của ta đối với chư Phật và Bồ tát. Phật bên ngoài chỉ có tác dụng trợ duyên nhằm để thức nhắc cho Phật tâm của chúng ta sống dậy. Bởi trong tâm ta cũng sẵn có ông Phật và chính ông Phật nầy mới là ông Phật thiệt. Còn ông Phật bên ngoài chỉ là giả tướng, tuy là giả tướng nhưng nếu không có các Ngài đánh thức thì làm sao chúng ta biết được mình sẵn có ông Phật thiệt. 

 

Còn niệm Phật là cốt để diệt trừ phiền não và để thành Phật như các Ngài. Niệm Phật là niệm ở nơi tâm. Chớ không phải niệm ở nơi cốt tượng. Vì tâm và Phật đâu có sai khác. Phật thành Phật là thành ở nơi tâm, ngoài tâm không có Phật. Vì vậy nên khi ta nhiếp tâm thành ý niệm Phật, lâu ngày thuần thục, cho đến khi tâm ta được thuần nhứt, không niệm mà vẫn tự niệm, được vậy, thì lo gì mà không được vãng sanh về Cực lạc. Hai chữ vãng sanh, chúng ta chớ có hiểu lầm. Thường khi nói đến vãng sanh thì người ta nghĩ ngay đến vãng sanh về Cực lạc. Hiểu thế, thì chưa được đúng lắm. Bởi sau khi lâm chung, ai cũng phải vãng sanh cả. Nhưng còn phải tùy nghiệp mà vãng sanh. Vãng là qua, sanh là sanh ra. Có thể ta sanh ra nhiều cảnh giới khác. Tùy nghiệp nhân mà có ra nghiệp quả. Nhân không niệm Phật thì làm sao vãng sanh về Cực lạc? Nếu muốn vãng sanh về Cực lạc, thì hành giả phải thiết thiệt niệm Phật như đã nói. Thành ra nói cho đủ là phải nói vãng sanh về Cực lạc. Nếu Phật tử niệm Phật đúng cách như lời Phật Tổ dạy thì chắc chắn Phật tử sẽ được vãng sanh về Cực lạc. Không phải vì thờ Phật trong phòng ngủ mà không được vãng sanh về Cực lạc như người đó nói.

 

2. Phật tử thờ như thế, đối với chư Phật và Bồ tát ngang nhau thì không sao, nhưng thờ Hòa thượng Tuyên Hóa ngang hàng với Phật và Bồ tát, tôi nghĩ là không được đúng lắm. Đối với HT Tuyên Hóa tuy ngài là một bậc chơn tu, nhưng ngài không thể so với Phật và Bồ tát được. Nếu thờ đúng cách, thì Phật tử nên thờ HT Tuyên Hóa ở tầng thấp hơn Phật và Bồ tát. Bởi chư Tổ người ta không thể thờ ngang hàng với chư Phật và Bồ tát được.

 

Nhân đây, tôi xin nói rõ hơn về vấn đề nầy để Phật tử hiểu thêm. Theo như Phật tử nói, thì cách thờ Phật và Bồ tát của Phật tử tuy không có sai trái, nhưng phải nói là hơi nhiều. Thật ra mình chỉ thờ một hay hai tượng Phật và Bồ tát là đủ rồi. Tùy theo người tu theo pháp môn nào thì người ta thờ vị Phật hay Bồ tát đó cho thích hợp. Như người tu Thiền, thì người ta chỉ thờ duy nhất một hình tượng Phật Thích Ca Mâu Ni mà thôi. Còn người tu theo pháp môn Tịnh độ, thì chỉ thờ tượng Phật A Di Đà, hoặc không thì thờ tượng Tam Thánh (Di Đà, Quan Âm, Thế Chí)  hay thờ thêm thánh tượng Quan Âm. Vì Phật tử ở tại gia thờ như thế là đủ rồi.

 

 Phần nhiều Phật tử chúng ta tuy tu nhưng vẫn còn có lòng tham rất lớn. Ngay như thờ Phật, Bồ tát cũng muốn thờ cho nhiều. Vì thờ một vị không đủ sức gia trì cho mình được toại nguyện những gì mà mình mong muốn. Như thờ Phật Thích Ca là vì nghĩ đến công ơn giáo hóa của Ngài. Thờ Phật Di Đà là muốn sau khi lâm chung được Ngài tiếp dẫn về thế giới Cực lạc của Ngài. Thờ Bồ Tát Quan Thế Âm là để Ngài cứu khổ cứu nạn. Thờ Phật Dược Sư là để Ngài gia hộ cho mình khỏi bị bệnh tật đau yếu. Thờ Ngài Địa Tạng nếu lỡ có bị sa đọa vào địa ngục, thì có Ngài đến dẫn dắt ra khỏi chốn u minh ngục hình. Có người còn muốn thỉnh nhiều vị thờ thêm nữa, nhưng vì bàn thờ có hạn và khung cảnh chật chội. Chớ nếu không, thì có bao nhiêu vị đều thỉnh về nhà thờ hết. Đó là tâm lý thường tình của chúng ta. Thật ra, tâm lý đó cũng tốt, nhưng không cần thiết phải thờ nhiều vị như thế. Thờ một vị Phật là thờ tất cả chư Phật. Nhưng người ta lại không thích như vậy. Có người không những thờ nhiều vị Phật, Bồ tát không thôi, mà còn thờ luôn cả các vị thần linh khác. Nào là Thần tài, Thổ địa, Chúa tiên, Chúa sứ v.v... Vì chưa hiểu ý nghĩa của việc thờ Phật nên mới xảy ra tình trạng thờ nhiều như thế.

 

3. Như trên đã nói việc thờ Phật trong phòng ngủ là điều không nên, vì đó không phải là chỗ để mình tôn thờ. Dù cho có phòng tắm hay phòng vệ sinh riêng biệt gì đi nữa, mà thờ Phật hay Bồ tát trong phòng ngủ của mình là điều bất kính. Đã gọi là thờ thì phải thờ nơi chỗ trang nghiêm và thanh tịnh. Trong phòng ngủ có thể mình treo một ảnh tượng Phật giấy lồng trong khuôn kiếng rồi treo lên nơi chỗ thích hợp thì có thể được, nhưng với điều kiện là phải độc thân. Nếu như vợ chồng ngủ chung một phòng thì cũng không nên, dù treo hình tượng bất cứ nơi đâu trong phòng ngủ. Nếu trong nhà chưa có chỗ nơi thuận tiện để thiết lập bàn thờ, thì tôi đề nghị với Phật tử tạm thời vẫn thờ Phật ở phòng khách. Những lúc Phật tử niệm Phật thì ngồi niệm Phật trong phòng ngủ cũng được, nhưng khi tụng niệm cho có trang nghiêm thì Phật tử tụng kinh lễ bái nơi thờ Phật ở phòng khách. Phật tử có thể linh động sắp xếp giờ giấc sao cho thích hợp, mà không gây ra làm phiền người khác trong gia đình. Điều nầy nên tìm cách thương lượng và khéo sắp xếp với người nhà để Phật tử có thể hành trì theo tâm nguyện của mình.

 

4. Điều nầy, tôi đã nói ở phần trên. Nếu Phật tử chỉ ở một mình trong căn phòng thì không có gì trở ngại cả. Phật tử cứ treo hình tượng Phật hoặc Bồ tát trong phòng nơi nào mà Phật tử cảm thấy thích hợp nhứt. Mục đích là để Phật tử tiện bề chiêm ngưỡng, quán tưởng điều đó không có gì là sai trái lỗi lầm cả.

 

Kính chúc Phật tử luôn được an khỏe để tinh tấn niệm Phật tu hành cầu sanh Tịnh độ.

 

34. Không hiểu sao có chùa lại thờ thần tài?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, thường thì trong các chùa chỉ thờ Phật và Bồ Tát hoặc chư long thiên hộ pháp, chớ đâu có thờ thần tài thổ địa. Tuy nhiên, con thấy có chùa lại thờ ông thần tài, không hiểu tại sao lại thờ như thế? Kính xin thầy làm ơn giải thích cho con rõ. Cảm ơn thầy.

 

Đáp: Vần đề thờ thần tài và thổ địa, thì tôi đã có trả lời trong những câu hỏi ở trong 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập một. Ở đây tôi không muốn lặp lại nhiều. Nếu Phật tử muốn biết rõ hơn về vấn đề thờ cúng nầy thì nên đọc lại quyển sách đó. Phật tử hỏi: "Tại sao có chùa lại thờ ông thần tài như thế?" Vấn đề nầy, thưa thật, từ trước tới nay tôi chưa thấy chùa nào mà thờ như thế cả. Lần đầu tiên, tôi mới nghe Phật tử hỏi về vấn đề nầy.

 

Nhân đây, tôi cũng xin thưa rõ để Phật tử khỏi phải lầm nhận. Vấn đề niềm tin, tôi luôn tôn trọng niềm tin của mỗi người. Vì mỗi người có mỗi quan niệm xây dựng niềm tin khác nhau. Tuy nhiên, dù bất cứ niềm tin nào mà không phù hợp với chân lý thì niềm tin đó không được gọi là Chánh tín. Việc thờ thần tài hay các vị thần nào khác đó là theo tập tục tín ngưỡng của dân gian. Rải rác trong các kinh điển của Phật giáo, đôi khi cũng có đề cập đến các vị thần. Như Kinh Địa Tạng cũng có nêu ra rất nhiều vị thần. Tuy nhiên, theo Phật giáo, quỷ thần cũng là một trong nhiều loài chúng sanh. Cho nên Phật dạy người Phật tử không được quy y với các vị quỷ thần. Người Phật tử sau khi quy y Tam bảo, trong nhà chỉ nên thiết lập một bàn thờ Phật và nếu có thờ thêm thì cũng chỉ thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ mà thôi. Ngoài ra không nên thờ bất cứ vị thần nào khác. Vì thờ như thế là trái với lời Phật, Tổ đã dạy. Đã chống trái, tất nhiên là mình đã có lỗi rồi. Nêu ra như thế để chúng ta thấy rằng, đối với người Phật tử tại gia mà Phật Tổ còn không cho thờ thần như thế, nói chi đến trong chùa.

 

Nếu quả thật có chùa nào đó thờ thần tài hay thổ địa như Phật tử đã nói thì, tôi xin thưa một cách khẳng quyết rằng, việc thờ đó là hoàn toàn sai lầm trái với kinh điển Phật dạy.

 

Thần tài là gì mà phải thờ? Có ai thấy thần tài chưa? Gốc gác của thần tài ra sao? Là người Phật tử chơn chánh khi tôn thờ một vị nào, ít nhất chúng ta cũng phải tìm hiểu về căn nguyên lai lịch xuất xứ của vị đó. Sở dĩ chúng ta thờ Phật, Bồ tát, hay các vị long thiên hộ pháp, không phải chỉ vì nghe đến oai danh uy nghiêm thần lực của các Ngài mà ta tôn thờ. Trước khi thờ vị nào chúng ta cũng cần phải biết rõ lịch sử lai lịch nguồn gốc của vị đó. Vị đó có liên quan và giúp ích lợi lạc thực tế gì cho đời sống con người. Nói rộng ra là cho tất cả chúng sinh. Đối với những vị có công ân sâu rộng lớn lao hy hiến cả cuộc đời để phụng sự làm lợi ích cho nhân quần xã hội, thì những vị đó quả đáng cho chúng ta kính cẩn quy hướng tôn thờ. Như chư Phật, chư Tổ và các bậc tiền bối tổ tiên ông bà cha mẹ v.v... Còn thần tài ta chỉ nghe tên thôi chớ chưa bao giờ biết rõ nguồn gốc lai lịch chi cả, thế mà ta vẫn thờ là sao? Nếu bảo rằng chùa nào đó mà thờ vị thần tài là chùa đó còn muốn ham phô trương làm giàu. Có nghĩa là muốn cho thần tài ủng hộ để cho mọi người đến cúng dường tiền bạc thật nhiều. Nếu chùa nào mà còn có quan niệm thờ như thế, thì tôi thành thật khuyên Phật tử nên lánh xa chùa đó. Vì chùa đó không phải tu hành theo Phật giáo vậy. Theo tôi, thì Phật tử nên kiểm chứng lại cho thật kỹ. Có đôi khi Phật tử lại lầm nhận hình tượng của Bồ Tát Di Lặc mà tưởng là Thần tài. Bởi hai hình tượng có đôi nét hơi giống nhau, nhất là phần bụng phệ. Tôi nghĩ, không có chùa nào mà lại thờ vị Thần tài cả.

 

Kính chúc Phật tử có đầy đủ trí huệ sáng suốt để phân biệt rõ chánh tà chân ngụy và luôn sống đúng theo Chánh pháp Phật dạy. 

 

35. Thọ giới Bồ tát có cần ăn trường chay không?

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, con có ý muốn thọ giới Bồ tát, nhưng con nghe có người nói, thọ giới Bồ tát phải ăn chay trường, riêng con thú thật, vì lý do sức khỏe và công việc, nên chưa thể ăn chay trường được. Vậy xin hỏi con có thể thọ giới Bồ tát được không? Kính xin thầy cho con lời giải đáp.

 

Đáp: Vấn đề ăn chay, ăn mặn và sự lợi ích cũng như tai hại của nó, tôi cũng đã có trả lời qua một vài câu hỏi có liên quan đến vấn đề nầy. Tuy nhiên, riêng về câu hỏi của Phật tử, Phật tử chỉ nghe người ta nói, chớ không có cơ sở luận cứ chắc chắn. Đã nghe người khác nói thì làm sao quyết chắc được? Trong giới Bồ Tát tại gia được rút ra từ trong Kinh Ưu Bà Tắc giới gồm có sáu giới trọng và hai mươi tám giới khinh, trong đó không có giới nào nói, người thọ giới Bồ tát là bắt buộc phải ăn chay trường cả. Trong sáu giới trọng thì giới không được sát sanh hại vật là đứng đầu, cũng giống như năm giới cấm của người Phật tử tại gia vậy thôi. Như vậy không có ai sau khi thọ ngũ giới hay Bồ tát giới rồi lại bắt buộc phải trường chay cả. Tuy nhiên, nếu Phật tử giữ được trường chay thì rất tốt. Vì tránh được nhiều tội lỗi do việc sát hại sanh linh gây ra. Tự tay mình giết hại chúng nó thì tội lỗi đã đành, nhưng nếu mình ăn thịt chúng, theo như trong Kinh nói, thì mình cũng có tội báo. Chính vì vậy, nên Phật mới khuyên người Phật tử nên tránh sát hại sanh linh và không nên ăn thịt chúng nó. Đó là vì Phật sợ chúng ta phải thọ quả báo đau khổ mà thôi. Bởi có nhân thì phải có quả. Còn việc trả quả nặng hay nhẹ, đó là tùy theo nghiệp nhân sát hại nặng nhẹ của chúng ta. Nặng thì cố sát, nhẹ thì vô tình. Phật Tổ chỉ vì thương xót chúng ta không muốn cho chúng ta gây tạo nghiệp ác mà phải chịu quả báo trầm luân đau khổ. Chớ các Ngài đâu có bắt buộc chúng ta phải ăn trường chay hết đâu. Bởi căn tánh nghiệp duyên của mỗi chúng sanh đâu có giống nhau. 

 

Trở lại câu hỏi của Phật tử, trường hợp của Phật tử vì lý do sức khỏe cũng như công việc, nên Phật tử chưa có thể giữ trường chay được. Tuy không giữa được nhưng Phật tử vẫn có thể thọ Bồ tát giới không có gì trở ngại cả. Tuy nhiên, sau khi thọ giới Bồ tát rồi, tôi thành thật khuyên Phật tử nên cố gắng không ăn trường chay được thì cũng nên ăn chay kỳ. Vì Bồ tát là một con người giác ngộ. Bồ tát có hai nghĩa: Hữu tình giác và giác hữu tình. Lòng từ bi của các Ngài lúc nào các Ngài cũng thương xót chúng sanh. Không có vị Bồ tát nào làm cho chúng sanh phải đau khổ cả. Nếu thế,  thì còn gì gọi là Bồ tát?

 

 Chúng ta thọ giới Bồ tát có nghĩa là chúng ta có ý muốn tập tu theo công hạnh của các Ngài. Mục đích là để cho chúng ta sẽ trở thành một con người cao thượng giải thoát như các Ngài. Đã thế, thì chúng ta phải cố gắng tập tu làm theo những gì mà Bồ tát đã làm. Công hạnh cứu độ chúng sanh của Bồ tát thật không sao kể xiết, nhưng tóm lại có hai công hạnh mà nó bao gồm tất cả. Đó là: "Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh". Nghĩa là trên thì cầu thành Phật, dưới thì hóa độ tất cả chúng sanh. Chúng ta tu theo công hạnh của các Ngài thì chúng ta cũng phải noi theo tấm gương cao cả đó. Nghĩa là chúng ta cũng phải lập nguyện: Trên cầu thành Phật và dưới cứu độ muôn loài. Có như thế thì chúng ta mới trở thành một vị Bồ tát trong hiện tại và tương lai.

 

Tóm lại, nếu đủ cơ duyên thì Phật tử vẫn cứ thọ giới Bồ tát và sau đó thì Phật tử tập ăn chay kỳ được bao nhiêu ngày thì tốt bấy nhiêu. Thật ra ăn chay nếu ăn đúng cách và có dinh dưỡng thì sức khỏe của chúng ta tăng lên chớ không có sút giảm đâu mà sợ. Tuy nhiên, điều nầy còn tùy theo nghiệp duyên của mỗi người. Nhưng nếu Phật tử ăn thường thì sẽ quen dần. Một khi đã quen ăn chay rồi, bấy giờ nghe mùi thịt cá tanh hôi Phật tử sẽ chịu không nổi. Hiện nay ở các nước Tây phương mà cụ thể như ở Úc chẳng hạn, số người Tây phương ăn chay tăng lên rất nhiều, nhất là thành phần giới trẻ. Tại các thành phố lớn như Nữu Ước, Luân Đôn, Ba Lê, Zurich, Amsterdam v.v... thành phố nào cũng có những tiệm cơm chay. Theo thống kê mới đây cho biết, số người ăn chay trường ở Bắc Mỹ Châu nay vào khoảng hơn mười lăm triệu người. Nêu ra như thế, để Phật tử thấy rằng việc ăn chay ngày nay đã trở thành một thói quen rất tốt cho sức khỏe. Vì đó cũng còn thể hiện được đức hiếu sinh và văn hóa cao đẹp  của con người.

 

Kính chúc Phật tử sớm đạt thành sở nguyện.

 

36. Thọ giới Sa di vì lý do sức khỏe tự tu ở nhà có được không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con năm nay đã hơn sáu mươi tuổi, sức khỏe kém, nhưng con muốn gieo trồng hạt giống xuất gia, vì vậy con muốn thọ giới Sa di và tu ở nhà không biết có được không? Nói ở nhà, nhưng con tạo cho mình có chỗ riêng biệt để tu, chớ không ở chung đụng trong gia đình. Như thế không biết có lỗi gì không? Kính mong thầy cho con lời khuyên. Con kính đội ơn thầy.

 

Đáp: Vấn đề xuất gia như tôi cũng đã có giái thích sơ qua ở mục 26 nói trên. Tuy nhiên, ở đây có điều khác biệt là, Phật tử có ý muốn xuất gia thọ giới Sa di và tu ở nhà. Phật tử tạo cho mình có chỗ riêng biệt để tu chớ không phải ở chùa. Phật tử hỏi như thế có được không? và có lỗi gì không?

 

Xin thưa, dĩ nhiên là được và cũng không có lỗi gì. Lý do là vì tuổi tác của Phật tử đã trên sáu mươi và sức khỏe kém. Chính vì thế nên Phật tử không muốn xuất gia tu ở chùa. Nếu ở chùa với tuổi cao và sức khỏe kém như thế, thì chỉ gây thêm gánh nặng lo lắng cho chùa. Do nghĩ thế nên Phật tử mới có ý định là tạo cho mình có một chỗ riêng biệt để tu. Điều nầy, tôi rất cảm thông qua ý nguyện thiết tha của Phật tử. Tuy nhiên, ở đây tôi cũng xin nói thêm về ý nghĩa của hai chữ xuất gia, rồi tùy đó mà Phật tử quyết định.

 

Như đã nói, hạnh nguyện của người xuất gia là một hạnh nguyện cao cả tuyệt vời, với ý chí là quyết thoát ly sanh tử khổ đau. Vì thế ý nghĩa của hai chữ xuất gia rất là cao thượng: xuất là ra, gia là nhà. Người xuất gia là phải ra khỏi ba ngôi nhà. Thứ nhứt, là ngôi nhà thế tục, tức là ngôi nhà lắm chuyện thị phi phiền toái rắc rối. Chớ không phải là ngôi nhà xây dựng bằng xi măng cốt sắt... Thứ hai, là ngôi nhà phiền não. Ngôi nhà nầy thật là khó khăn trăm bề không phải dễ dàng để thoát ra. Đòi hỏi người xuất gia phải lập chí kiên trì vững mạnh, phải dày công tu tập hướng nội, và nhất là phải thường xuyên quán chiếu lại chính mình, dùng thanh gươm trí tuệ sắc bén để tảo thanh lũ giặc phiền não. Có thế thì phiền não mới có thể vơi bớt đi phần nào. Bằng không, thì khó mà thoát ra. Thứ ba là ngôi nhà Tam giới, tức ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Có ra khỏi ba cõi mới không còn trôi nổi lặn hụp đắm chìm trong biển đời sanh tử đầy hệ lụy khổ đau  nữa.

 

Ở đây, vì phạm vi trả lời câu hỏi, nên tôi không thể giải thích rộng ra qua ba vấn đề nầy. Nêu ra ba ngôi nhà như thế, chắc Phật tử cũng biết là ngôi nhà nào quan trọng nhứt đối với người xuất gia rồi. Khi đã xuất gia thọ giới (dù là giới Sa di) Phật tử cũng đã trở thành một vị tu sĩ trong Phật giáo. Với hình thức là người đầu tròn áo vuông mà nếu không giữ tròn phẩm hạnh cao đẹp của người xuất gia thì đó mới là điều đắc tội. Tuy Phật tử có ý muốn gieo hạt giống xuất gia, nhưng nếu chỉ có hình thức không thôi, thì làm sao Phật tử tu hạnh xuất thế cho được? Đâu phải xuất gia chỉ đơn giản như thế. Như vậy thì còn gì là ý nghĩa cao cả và phẩm hạnh quý đẹp của người xuất gia? Vai trò và trách nhiệm của người xuất gia rất là lớn lao. Người xuất gia là người đứng đầu tàu của lịch sử truyền thừa là chúng trung tôn của đấng Điều Ngự. Là người phải thay Phật tuyên dương chánh pháp. Muốn thế, thì người xuất gia cần phải nghiên tầm học hỏi giáo pháp của Phật. Xuất gia mà không hiểu rõ giáo lý Phật dạy, phép tắc luật nghi, pháp hạnh xuất thế v.v... như thế thì làm sao đúng với ý nghĩa và phẩm hạnh cao đẹp của người xuất gia?

 

 Người ta nghĩ xuất gia sao quá dễ dàng, chỉ cần cạo đầu, thọ giới ở chùa, hoặc ở nhà thế là đã xuất gia rồi. Đó chỉ là xuất gia trên bề mặt hình thức, chớ chưa phải đúng với ý nghĩa nội dung của hai chữ xuất gia. Người xuất gia phải có đủ cả hai lĩnh vực: hình thức và nội dung. Hình thức là gìn giữ oai nghi tế hạnh, đi đứng nghiêm trang. Đó là phần thân giáo. Ngôn từ hòa ái, từ tốn khiêm cung, chân thật bất hư. Đó là phần khẩu giáo. Nội dung là cần phải thiền quán tu tập, gạn lọc chuyển hóa vô minh phiền não. Cả hai đều phải bổ túc song hành với nhau. Đó cũng là phương cách "hàng thân phục tâm" vậy. Tuy nhiên, điều quan trọng của người xuất gia vẫn là ở phần phẩm chất nội dung hơn là hình thức.  Tổ Quy Sơn dạy: Người xuất gia phải hằng tâm niệm: "Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tranh chi đức" Nghĩa là trong thường nhớ nghĩ công phu, tức là phải tu tập đoạn trừ phiền não. Ngoài rộng mở hạnh hòa kính. Nghĩa là không hơn thua tranh cãi với ai. Đối với mọi người phải luôn luôn giữ sự yêu thương và xử sự hòa kính. Đó là hạnh nguyện cao cả của người xuất gia. Thế nên, tôi thành thật khuyên Phật tử cần phải suy xét kỹ trước khi thực hiện ý nguyện.

 

Kính chúc Phật tử được dồi dào sức khỏe, tinh tấn tu hành và chóng đạt thành sở nguyện.

 

37. Cầu nguyện, phục nguyện, phổ nguyện, phát nguyện, ý nghĩa khác nhau như thế nào?

 

Hỏi : Kính bạch thầy, con thường nghe cầu nguyện, phục nguyện, phổ nguyện và phát nguyện, nhưng con chưa hiểu rõ sự khác biệt của những từ ngữ nầy. Kính mong thầy giải thích cho con được rõ. Con kính cám ơn thầy.

 

Đáp:  Việc cầu nguyện là biểu lộ tình cảm với lòng ước muốn của chúng ta nhằm hướng đến một vấn đề nào đó, mong vấn đề đó chóng được kết quả thành tựu như ý muốn. Vì thế, nên việc cầu nguyện nó không nằm trong phạm trù của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. Hầu hết các tôn giáo không có tôn giáo nào lại không có những hình thức cúng tế cầu nguyện. Tuy nhiên, việc cầu nguyện đó có đạt được như ý muốn của mình hay không lại là một vấn đề khác. Không phải ai cầu nguyện rồi cũng được toại nguyện như ý hết. Điều nầy còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là người cầu nguyện và đối tượng cầu nguyện. Phật tử hỏi: Cầu nguyện, phục nguyện, phổ nguyện và phát nguyện giữa những từ ngữ nầy có khác nhau không? Xin thưa, xét về mặt từ ngữ thì có khác đôi chút, nhưng mục đích nhắm tới thì không có khác mấy.

 

Cầu nguyện thì bất cứ ở đâu và lúc nào cũng có thể cầu nguyện được cả. Tuy nhiên, sự cầu nguyện tùy theo mỗi hoàn cảnh, tâm trạng mà tính chất của nó có rộng hẹp khác nhau. Như cầu nguyện cho mình được làm ăn suôn sẻ phát đạt, gia đạo được bình an, hay mua may bán đắt v.v... Nói chung, việc cầu nguyện nào có tánh cách nhằm lợi ích cho riêng mình, thì việc cầu nguyện đó rất là ích kỷ nhỏ hẹp. Ngược lại, nếu cầu nguyện vì tha nhân, mong cho mọi người được an lạc hạnh phúc, thế giới sống chung hòa bình hay mưa thuận gió hòa, mùa màng thịnh vượng v.v...  thì việc cầu nguyện đó mang tính phổ cập rộng rãi, phát xuất từ tấm lòng từ bi lợi người lợi vật mà ra.

 

 Còn nói phục nguyện, là vì khi bắt đầu thật hành khóa lễ tụng niệm là đã có phần cầu (kỳ) nguyện. Vì vậy, nên cuối thời kinh lại nguyện thêm một lần nữa nên nói là phục nguyện. Phục có nghĩa là lại; nguyện có nghĩa là mong muốn. Có nghĩa là mình mong muốn thêm một lần nữa, cầu cho cõi âm thì chóng được siêu thoát, cõi dương thì được thái hòa an lạc...

 

Còn nói phổ nguyện là nguyện khắp hết muôn loài chúng sinh không phân biệt thân sơ, nguyện cho tất cả đều được ân triêm lợi lạc. Như nói: "phổ nguyện âm siêu dương thới, pháp giới chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo". Nguyện như thế là gồm thâu không bỏ sót một loài nào cả.

 

Riêng về hai chữ phát nguyện nghĩa của nó không giống như những việc cầu nguyện nói trên. Bởi phát nguyện là tự mình phát ra mong muốn làm một điều gì đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và người. Như nói: phát nguyện thọ Bát quan trai giới, phát nguyện làm lành lánh dữ hay phát nguyện ăn chay trường v.v... Đó là tự mình phát nguyện tha thiết muốn làm việc đó không có ai bắt buộc mình cả. Khi đã phát nguyện rồi, thì mình phải cố gắng gìn giữ không cho sai phạm. Sự phát nguyện nầy rất là thiết yếu cho việc tu hành hướng thượng của chúng ta vậy. 

 

38. Tam đức lục vị là gì?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, trong quyển sách nhỏ nghi thức thọ trai cúng quá đường, sau câu Ma ha bát nhã ba la mật, có bốn chữ Tam đức lục vị, con chưa hiểu bốn chữ nầy ý nghĩa như thế nào. Kính xin thầy khai thị. Con cám ơn thầy.

 

Đáp: Tam đức có ba nghĩa: mềm mại, tinh khiết, và đúng pháp. Còn lục vị là: đắng, chua, ngọt, cay, mặn và lạt.

 

Trong Phẩm Tự của Kinh Đại Bát Niết Bàn có nói: "Khi Phật sắp nhập Niết bàn, các Ưu bà tắc sắm sửa các thức uống ăn dâng lên cúng dường Phật và chúng tăng, các thức uống ăn nầy ngon ngọt có đủ tam đức, lục vị". Về sau tam đức lục vị trở thành bài kệ được chư Tổ liệt vào trong nghi thức cúng dường thọ trai hằng ngày ở trong các tự viện thuộc hệ Phật giáo Bắc tông. Phật giáo Nam tông (Nguyên Thủy) thì không có hình thức cúng dường ở quá đường như Phật giáo Bắc tông (Phát Triển).

 

Cần nói thêm, trong ba đức trên có hai đức quan trọng mà chúng ta cần để ý đó là: "Tinh khiết và Đúng pháp". Tinh khiết là những thức ăn, thức uống cần phải được bảo trì giữ gìn sạch sẽ. Đúng pháp là phải giữ đúng theo phép tắc vệ sinh. Vì những điều nầy có liên quan đến sức khỏe của chúng tăng và những người khác. Nếu những vị nấu nướng ở khu nhà bếp mà không cẩn thận giữ gìn sạch sẽ mất phẩm chất vệ sinh, nhất là những thức ăn uống không được bảo quản kỹ lưỡng thì, sẽ gây ra ảnh hưởng rất tai hại đến sức khỏe của mọi người. Người có trách nhiệm quản lý trông coi nhà bếp phải thường xuyên kiểm soát những thực phẩm tồn kho cho thật kỹ lưỡng. Những thức ăn nào quá hạn lâu ngày thì nên vứt bỏ đi đừng có tiếc nuối lưu trữ để dùng. Có người vì không hiểu cứ tiếc nuối sợ bỏ mang tội của Đàn na tín thí nên cứ mang ra nấu ăn hoài. Có những thức ăn để tồn trữ quá lâu mà vẫn cứ xài. Nhất là dầu ăn cứ xài đi xài lại ắp lẵm đến độ dầu trở nên đen xì mà vẫn cứ dùng. Thế là người nấu thì không sao mà người ăn mới thật là nguy hiểm! Điều nầy rất có hại cho gan và có thể gây ra tình trạng bị bệnh ung thư gan. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề tối ư quan trọng mà các vị có trách nhiệm làm việc ở khu nhà trù cần phải cẩn trọng quan tâm lưu ý.

 

Rồi đến việc nêm nếm cũng vậy. Có người vì vô ý nên khi nêm nếm thức ăn lại nếm trực tiếp, đó là mất tinh khiết không phù hợp với nguyên tắc vệ sinh. Nếu người đó sẵn mang trong người một chứng bệnh nan y nguy hiểm nào đó, mà lại nêm nếm như thế, thì sẽ dễ gây ra cho người khác bị truyền nhiễm. Tốt hơn hết, khi nêm nếm ta cần phải múc ra một cái chén riêng không được nếm trực tiếp vào trong cái vá hoặc cái muỗng. Nếu bất cẩn ta phạm vào hai cái lỗi: Một là, ta đã dùng trước chúng Tăng, điều nầy mang tội rất lớn. Trong Luật Sa Di có nêu ra câu chuyện về một thầy Sa di khi chặt gọt đường phèn dâng cúng chúng Tăng, đường dính trong lưỡi dao, trộm lấy ăn, vì duyên tội ấy nên phải bị đọa vào địa ngục chịu biết bao nỗi cực hình thống khổ. Đến khi hết tội địa ngục còn bị cái dư báo phải trả là bị con dao bén cháy đỏ chặt đứt cuống lưỡi. Thật là đáng kinh sợ lắm thay! Thế nên những ai nấu bếp thiết đãi cúng dường chúng tăng cần phải lưu tâm cẩn thận vậy. Hai là, vì sự bất cẩn của ta mà gây ra làm người khác phải mang chứng bệnh như ta. Vì ta mà họ phải chịu họa lây. Thế nên, cả hai điều đó ta đều phải tránh. Mong rằng, những ai có trách nhiệm nấu nướng ở nhà bếp xin lưu ý quan tâm đến vấn đề hệ trọng nầy.

 

39. Nhà từ đường bỏ trống không người ở, nay muốn thỉnh hương linh về thờ có được không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con có nỗi khổ tâm mà tất cả chị em con không giải quyết được. Nay kính mong thầy cho con lời giải. Số là, cha mẹ con là người có đạo nên tạo ngôi nhà ba gian: gian chính giữa thờ Phật, bên thờ cửu huyền, bên cha mẹ đó là tâm nguyện của cha con. Nay cha mẹ con mất năm năm để nhà cho em trai thờ phượng, nhưng vì hoàn cảnh cậu ấy không ở nhà thờ nên để nhà và bàn thờ hương tàn khói lạnh đã 2 năm rồi, giờ em út muốn thỉnh hương linh cha mẹ về thờ bỏ nhà trống không ai ở. Vậy con có ba câu hỏi:

1. Con nghe người ta nói nhà từ đường mà bỏ hoang thì con cháu làm ăn không khá, vì mang tội, có đúng không?

2. Chúng con định để y bàn thờ đến ngày giỗ về mở cửa rồi đóng lại?

3. Chúng con có nên để cho đứa em út thỉnh về thờ hay để hương linh như cũ? Kính xin thầy từ bi cho con lời dạy.

 

Đáp: Qua ba câu hỏi thắc mắc của Phật tử, tôi xin được lần lượt góp chút thành ý như sau:

 

1. Phật tử nghe người ta nói: "Nhà từ đường mà bỏ hoang thì con cháu làm ăn không khá, vì mang tội". Phật tử hỏi có đúng không? Xin thưa, điều đó không hẳn đúng như vậy. Việc làm ăn khá hay không là do chính mình chớ không phải do cái nhà từ đường bỏ hoang. Nếu nói như thế, thì có lắm người vẫn thờ phụng ông bà hoặc cha mẹ trong nhà mà công việc làm ăn của họ vẫn bị thất bại nghèo túng thì sao? Việc làm ăn khá hay không nó còn đòi hỏi phải có nhiều yếu tố thiết thực. Cái yếu tố quan trọng nhứt là người đó có phước báo hay không? Không thể nhìn cục diện mà có thể đánh giá được. Tuy nhiên, đã là nhà thờ tổ tiên ông bà mà để nhang tàn khói lạnh như Phật tử đã nói thì thật là có lỗi.  Có lỗi là vì mình quên đi cái công ơn sanh thành giáo dưỡng lớn lao của ông bà cha mẹ. Sách có câu: "Sự tử như sự sanh". Nghĩa là mình hãy xem người chết như lúc còn sống. Khi ông bà cha mẹ còn sanh tiền thì mình phải hết lòng phụng dưỡng tri ân và báo ân. Đến khi các vị đó khuất bóng, thì đạo làm con mình cũng phải nhớ đến cái công ơn đó mà hết lòng thờ kính. Thế mới phải đạo làm con. Đó là truyền thống văn hóa cổ truyền cao đẹp của người Việt Nam chúng ta vậy. Tuy nhiên, lỗi nầy là do vì hoàn cảnh bất khả kháng ngoài ý muốn của mọi người trong gia đình. Tôi nghĩ, Phật và ông bà cha mẹ không có ai bắt tội Phật tử đâu mà Phật tử phải lo sợ.

 

2. Phật tử hỏi: "Có nên để y bàn thờ đến ngày giỗ mở cửa rồi đóng lại?" Nếu trường hợp vì hoàn cảnh mà gia đình không thể sắp xếp có người ở để sớm hôm nhang khói được, thì Phật tử cũng có thể đóng cửa lại sau khi mọi người tựu về cúng giỗ. Điều nầy cũng không có gì là lỗi lầm cả. Bởi việc nầy ngoài ý muốn của mọi người. Phật và tổ tiên ông bà cũng thấu hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh của Phật tử và những thành viên trong gia đình.

 

3. Vấn đề nầy tốt nhứt là nên có một buổi họp mặt của những thành viên thân thuộc trong gia đình. Nếu như mọi người đều đồng ý để cho người em út thỉnh tất cả về thờ thì cũng không có gì trở ngại. Điều nầy tùy thuộc vào sự quyết định chung của mọi người trong gia đình. Điều quan trọng không phải thỉnh về thờ hay giữ nguyên như cũ, mà quan trọng là ở chỗ tất cả con cháu có thành ý nhứt trí hòa hợp thuận thảo với nhau hay không. Việc nầy nên lấy ý kiến chung để quyết định. Nếu đa số đều đồng ý thì Phật tử cũng nên làm theo cho vui lòng mọi người.

 

Kính chúc Phật tử và những người thân trong gia đình có một đời sống an hòa và hạnh phúc.