51. Phẩm Thí Dụ

Thứ Năm, 25 Tháng Tám 202211:04 SA(Xem: 629)
51. Phẩm Thí Dụ
KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch
Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh

51. PHẨM THÍ DỤ THỨ NĂM MƯƠI MỐT

 Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Ví như thuyền hư chìm giữa biển lớn, nếu người nào trong thuyền chẳng nắm phao, chẳng ôm cây ván hoặc tử thi, phải biết những người ấy không thể vào bờ và sẽ chìm chết. Người nào nắm phao hoặc ôm cây ván, tử thi, phải biết người nầy chẳng bị chìm chết, sẽ được vào đến bờ an ổn tự tại.

 Cũng vậy, nầy Tu Bồ Đề! Thiện namthiện nữ cầu Phật đạo, nếu chỉ có lòng tin ưa mà chẳng y Bát nhã ba la mật, chẳng biên chép, chẳng thọ trì, chẳng đọc, chẳng tụng, chẳng giảng thuyết, chẳng chánh ức niệm, với năm ba la mật kia nhẫn đến nhứt thiết chủng trí cũng đều chẳng y, chẳng biên chép, đọc tụng, chánh ức niệm, phải biết thiện namthiện nữ nầy giữa đường suy hao, chẳng đến được nhứt thiết chủng trí, sẽ chứng lấy bực Thanh văn hoặc Bích Chi Phật.

 Nầy Tu Bồ Đề! Nếu thiện namthiện nữ cầu Phật đạo, có đức tin, đức nhẫn, có tịnh tâmthâm tâm, có nguyện, có giải, có xả, có tinh tấny Bát nhã ba la mật, biên chép, thọ trìđọc tụnggiảng thuyết, chánh ức niệm, người nầy được sự gia hộ của Bát nhã ba la mật sâu xa, nhẫn đến được sự gia hộ của nhứt thiết chủng trí. Vì được gia hộ nên người nầy chẳng giữa đường suy hao, vượt khỏi bực Thanh vănBích Chi Phật, hay tịnh Phật độ, thành tựu chúng sanh, sẽ chứng Vô thượng Bồ đề.

 Nầy Tu Bồ Đề! Ví như có người dùng cáo bình đất chưa nung chín để múc nước, phải biết không bao lâu cái bình ấy sẽ bể rã, trở về nơi đất.

 Cũng vậy, thiện namthiện nữ dầu có tâm Vô thượng Bồ đề, có đức tin, đức nhẫn, có tịnh tâmthâm tâm, có nguyện, có giải, có xả, có tinh tấn, mà chẳng được sự gia hộ của Bát nhã ba la mật sâu xa nhẫn đến của nhứt thiết chủng trí, người nầy giữa đường suy hao, sẽ sa vào bực Thanh vănBích Chi Phật.

 Nầy Tu Bồ Đề! Ví như có người dùng bình đất đã nung chín để múc nước, phải biết cái bình nầy sẽ chứa được mà không rã.

 Cũng vậy, thiện namthiện nữ cầu Vô thượng Bồ đề, có đức tin, đức nhẫn, có tịnh tâmthâm tâm, có nguyện, giải, xả, tinh tấn, lại được sự gia hộ của Bát nhã ba la mật sâu xa nhẫn đến của nhứt thiết chủng trí, phải biết người nầy chẳng suy hao giữa đường mà vượt khỏi bực Thanh vănBích Chi Phật, hay tịnh Phật độ, thành tựu chúng sanh, chứng được Vô thượng Bồ đề.

 Lại nầy Tu Bồ Đề! Ví như thuyền trang bị chưa hoàn thành mà chở tài vật vượt biển khơi, sẽ biết thuyền nầy sẽ hư chìm giữa đường, người một nơi, thuyền và tài vật chìm trôi một ngả. Vì phương tiện không đầy đủ nên lái buôn phải mất tài vật.

 Cũng vậy, thiện namthiện nữ dầu có tâm Bồ đề, có đức tin, có nhẫn, nguyện, tịnh tâmthâm tâm đến tinh tấn mà không được phương tiện lực của Bát nhã ba la mật nhẫn đến của nhứt thiết chủng trí gia hộ, phải biết người nầy giữa đường suy hao, mất đại trân bảo nhứt thiết chủng trí, sa vào bực Thanh vănBích Chi Phật.

 Nầy Tu Bồ Đề! Ví như người có trí, trang bị thuyền lớn hoàn hảo, sau đó mới hạ thuyền xuống biển chuyên chở tài vật, phải biết thuyền nầy tất không hư giữa đường, sẽ đến được chỗ muốn đến.

 Cũng vậy, thiện namthiện nữ cầu Phật đạo, có đức tin, có nhẫn, có tịnh tâmthâm tâm, có nguyện, giải, xả, tinh tấn, lại được phương tiện lực của Bát nhã ba la mật đến nhứt thiết chủng trí gia hộ, phải biết người nầy sẽ được Vô thượng Bồ đề, không bị suy hao giữa đường, sa vào Thanh vănBích Chi Phật.

 Nầy Tu Bồ Đề! Ví như có người tuổi già hơn trăm, suy yếu nhiều bịnh. Người già bịnh nầy nằm liệt trên giường không thể dậy đi được, hoặc có dậy đi được cũng không thể bước đi xa một, hai mươi dặm được.

 Cũng vậy, thiện namthiện nữ dầu có tâm Bồ đề có đức tin, nhẫn có tịnh tâmthâm tâm, có nguyện, giải, xả, tinh tấn nhưng chẳng được phương tiện lực của Bát nhã ba la mật gia hộ, nhẫn đến chẳng được phương tiện lực của nhứt thiết chủng trí gia hộ, phải biết người nầy giữa đường sa vào bực Thanh vănBích Chi Phật.

 Như người già hơn trăm tuổi, suy yếu nhiều bịnh muốn đứng dậy bước đi, có hai người khỏe mạnh tận lực kèm dìu hai bên, nhờ đó người già bịnh đi đến được chỗ muốn.

 Cũng vậy, thiện namthiện nữ cầu Phật đạo, có đức tin, có nhẫn, có tịnh tâmthâm tâm, có dục, giải, xả, tinh tấn, lại được phương tiện lực của Bát nhã ba la mật nhẫn đến của nhứt thiết chủng trí gai hộ, phải biết người nầy giữa không sa vào bực Thanh vănBích Chi Phật mà đến được chỗ muốn đến, đó là Vô thượng Bồ đề”.

 Đến đây đức Phật lại khen Ngài Tu Bồ Đề: “Lành thay, lành thay! Tu Bồ Đề vì chư Bồ Tát mà thưa hỏi nơi Như Lai sự việc như vậy.

 Nầy Tu Bồ Đề! nếu có thiện namthiện nữ từ lúc mới phát tâm đến nay dùng tâm ngã ngã sở mà bố thítrì giớinhẫn nhụctinh tấnthiền địnhtrí huệ. Lúc bố thí nhẫn đến trí huệ, người nầy có quan niệm: Tôi là thí chủ, tôi bố thí cho người ấy, tôi bố thí vật ấy, nhẫn đến có quan niệm tôi là người tu trí huệ, tôi tu trí huệ ấy, tôi có trí huệ. Người nầy chẳng biết, thử ngạn, chẳng được sự gia hộ của Bát nhã ba la mật nhẫn đến chẳng được sự gia hộ của nhứt thiết chủng trí. Vì trong Bát nhã ba la mật nhẫn đến trong Đàn na ba la mật không có sự phân biệt như vậy. Xa lìa thử ngạnbỉ ngạn, đó là tướng của sáu ba la mật. Vì không được gia hộ nên người nầy chẳng đến nhứt thiết chủng trí mà sa vào bực Thanh vănBích Chi Phật.

 Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào là người cầu Phật đạo mà không có phương tiện?

 Người cầu Phật đạo từ lúc sơ phát tâm đến nay không có sức phương tiện trong khi thật hành sáu độ, người nầy quan niệm rằng tôi là thí chủ bố thí cho người và dùng tài vật ấy để bố thí, nhẫn đến quan niệm rằng tôi tu huệ ấy, có huệ ấy, do đó mà có quan niệm tự cao: Nơi bố thí tự cao, trì giới tự cao, nhẫn nhục tự cao, tinh tấn tự cao, thiền định tự cao, trí huệ tự cao. người nầy không biết rằng không phân biệt nhớ tưởng, xa lìa thử ngạnbỉ ngạn là tướng của sáu ba la mật. Vì không biết thử ngạn, không biết bỉ ngạn nên người nầy không được thủ hộ của Đàn na ba la mật nhẫn đến không được thủ hộ của nhứt thiết chủng trí, do đó không thể đến được nhứt thiết chủng trí mà phải sa vào bực Thanh văn hay Bích Chi Phật.

 Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! đại Bồ Tát nếu chẳng được sức phương tiện của Bát nhã ba la mật thủ hộ, tất phải sa vào bực Thanh văn hay Bích Chi Phật.

 Nếu được sự gia hộ của phương tiện lực Bát nhã ba la mậtđại Bồ Tát tất mau được Vô thượng Bồ đề, không bị sa vào bực Thanh văn hay Bích Chi Phật.

 Thế nào là được sự gia hộ?

 Nầy Tu Bồ Đề! Từ ban sơ đến nayBồ Tát dùng sức phương tiện mà bố thíkhông tâm nghĩ có ngã ngã sở nhẫn đến không tâm ngã ngã sở mà tu trí huệBồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng tôi có bố thí, đó là của tôi bố thí, chẳng vì bố thí mà tự cao, nhẫn đến chẳng vì trí huệ mà tự cao. Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng tôi là thí chủ, tôi bố thí cho người ấy, tôi đem vật ấy để bố thí, nhẫn đến chẳng nghĩ rằng tôi tu trí huệ, tôi có trí huệ ấy. Tại sao vậy? Vì trong Đàn na ba la mật không có sự phân biệt như vậy, xa lìa thử ngạnbỉ ngạn là tướng của Đàn na ba la mật, nhẫn đến xa lìa thử ngạnbỉ ngạn là tướng Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật không sự nhớ nghĩ, phân biệt như vậy.

 Bồ Tát nầy biết thử ngạn, biết bỉ ngạnBồ Tát nầy được Đàn na ba la mật hộ niệm nhẫn đến được Bát nhã ba la mật hộ niệm, được nội khôngngoại không nhẫn đến được nhứt thiết chủng trí họ niệm. Vì được sự hộ niệm đó nên Bồ Tát nầy chẳng sa vào bực Thanh vănBích Chi Phật mà được đến bực nhứt thiết chủng trí.

 Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! đại Bồ Tát vì được phương tiện lực của Bát nhã ba la mật gia hộ nên chẳng sa vào bực Thanh vănBích Chi Phật mà mau được Vô thượng Bồ đề”.