CHƯƠNG VĂN THÙ
Một thời đức Thế tôn nhập vào chánh định tên là Kho tàng ánh sáng vĩ đại của thần thông. Kho tàng ấy là chỗ ở giữ một cách sáng chói tôn nghiêm của các đức Thế tôn, là tính tuệ giác vốn rất trong suốt sạch sẽ của các loại chúng sinh. Đức Thế tôn nhập vào chánh định ấy nên thân thể và tâm trí đều vắng lặng, đồng nhất với bản thể phổ biến vũ trụ, nghĩa là thích ứng với sự bất nhị. Chính sự bất nhị này biểu hiện thế giới trong sạch. Đức Thế tôn ở nơi thế giới trong sạch này, và cùng ở với ngài có mười ngàn vị đại sĩ mà các bậc đứng đầu là bồ tát Văn thù, bồ tát Phổ hiền, bồ tát Phổ nhãn, bồ tát Kim cang tạng, bồ tát Di lạc, bồ tát Thanh tịnh tuệ, bồ tát Uy đức tự tại, bồ tát Biện âm, bồ tát Tịnh chư nghiệp chướng, bồ tát Phổ giác, bồ tát Viên giác, bồ tát Hiền thiêển thủ; các vị này, và các vị tùy thuộc, cùng nhập vào chánh định, nên cùng dự pháp hội bình đẳng của đức Thế tôn.
Lúc ấy bồ tát Văn thù ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương cao cả, con xin ngài vì các vị đến dự pháp hội này mà nói về việc làm căn bản sơ khởi của đức Thế tôn là thế nào? Lại nói về các vị bồ tát ở trong đại thừa phát tâm như thế nào mới trong suốt, tách rời bịnh hoạn? Và thời kỳ cuối cùng, những người cầu pháp đại thừa phải như thế nào mới khỏi sa vào kiến thức sai lầm? Tác bạch rồi, bồ tát Văn thù gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ tát Văn thù: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ tát mà hỏi đến việc làm căn bản sơ khởi của Như lai, lại vì những người cầu pháp đại thừa trong thời kỳ cuối cùng mà hỏi làm cách nào để được sự trú ở chính xác, không sa vào kiến thức sai lầm. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Văn thù vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử, đức Pháp vương vô thượng có pháp đại tổng trì danh hiệu là Viên giác, tuôn ra tất cả các pháp trong sáng là chân như, bồ đề, niết bàn và ba la mật, để dạy cho các vị bồ tát. Việc làm căn bản sơ khởi của chư vị Như lai là y theo viên giác ẫ y theo tuệ giác trong suốt và chiếu soi trọn vẹn ấy mà diệt trừ vô minh một cách vĩnh viễn, mới thành đạt tuệ giác Phật đà.
Thiện nam tử, vô minh là gì, là những sự thác loạn có từ vô thỉ đến giờ của các loại chúng sinh, những sự thác loạn tựa như một kẻ ngộ nhận thì bốn phương hướng biến đổi vị trí tất cả. Do đó mà ngộ nhận sự tổ hợp của bốn đại chủng làm tự thân, ngộ nhận sự nhận thức về sáu đối cảnh làm tự tâm, khác nào mắt bịnh thì thấy không gian có hoa đốm, hay thấy mặt trăng có mặt trăng thứ hai chồng lên. Nhưng không gian thật không có hoa đốm, hoa đốm chỉ do người bịnh ngộ nhận: vì sự ngộ nhận này mà không những ngộ nhận sự thực của không gian, lại còn ngộ nhận cả xuất xứ chính xác của hoa đốm, và vì như vậy mà có sự sinh tử luân hồi, có một cách không thật, nên mệnh danh là vô minh.
Thiện nam tử, vô minh như vậy là không phải có thật , y như nhân vật trong mộng, mộng thì thấy là có mà tỉnh thì biết là không — Không đây là như hoa đốm mất đi trong không gian, thì không thể nói không gian có cái vị trí biến mất, vì lẽ không gian vốn không có cái vị trí sinh ra. Trong sự không sinh không mất như vậy, các loại chúng sinh thấy lầm có sinh có mất , nên gọi là sinh tử luân hồi ; còn việc làm căn bản sơ khởi của chư vị Như lai là tu theo viên giác : biết là hoa đốm thì biết sinh tử luân hồi là không, thân tâm lãnh chịu sự sinh tử luân hồi ấy cũng là không ẫ Không, không phải làm cho không đi mới không, mà là thực chất vốn không. Biết là hoa đốm, cái biết ấy cũng là không; cái biết cũng là không như vậy cũng chỉ là sắc thái hoa đốm; và như thế thì cũng không thể nói rằng không biết gì cả: có và không đều loại bỏ thì gọi là thích hợp với tuệ giác trong sáng. Tuệ giác trong sáng là vì bản thể vốn như không gian, vĩnh viễn bất động, nghĩa là Như lai tạng không có sự sinh ra và sự mất đi, không có cái thấy biết phản ảnh sự sinh ra và sự mất đi, mà là bản thể vũ trụ vốn tuyệt đối, trọn vẹn và phổ biến.
Như thế đó là việc làm căn bản sơ khởi của Như lai. Bồ tát y theo căn bản ấy mà ở trong đại thừa phát tâm trong suốt. Và những người thời kỳ cuối cùng y cứ căn bản ấy mà tu hành thì không sa vào kiến thức sai lầm.
Văn thù nên biết,
tất cả Như lai
căn bản sơ khởi
vận dụng tuệ giác:
biết rằng vô minh
chỉ như hoa đốm
nên hết luân hồi,
khác nào cảnh mộng
mộng mị thấy có
thức tỉnh toàn không.
Cái biết trên đây
vốn cũng là không,
bình đẳng, bất động,
phổ biến mười phương:
ấy là thành đạt
tuệ giác Phật đà.
Huyễn ảo biến mất
thì không vị trí,
tuệ giác thành đạt
cũng vốn là không,
vì lẽ bản thể
vốn là tròn đầy.
Y cứ vào đây
các vị bồ tát
có thể phát ra
tâm đại bồ đề;
những người sau này
heo đây mà tu
thì khỏi sa vào
kiến thức sai lầm.