B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 11)

Thứ Tư, 11 Tháng Giêng 20237:21 CH(Xem: 669)
B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 11)
KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT GIẢNG GIẢI
Thích Thanh Từ 

B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 11)

Nếu luận về pháp văn tự đó là Phật trước, pháp sau. Vì sao? Bởi chư Phật lúc tột ban đầu tu hành, là tự chứng Căn bản trí tuệ, Pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật. Đến khi thành Phật xong, mới nương nơi Hóa thân trăm ức ở cõi biến hóa, vận dụng thần thông, thị hiện mọi thứ, sau đó nói rộng các thứ ngôn từ, các thứ thí dụ, các thứ cơ quan, các thứ nghĩa lý, sắn bìm lá bối, kết tập văn tự, nương sự mà đặt tên, kinh này luận nọ, sắp xếp thứ tự rồi gom lại làm từng quyển, thành tạng kinh mười hai bộ, rồi để lại lời dặn dò, lưu truyền ở đời, mở rộng phương tiện chỉ đường, chỉ lối mà tiếp hóa chúng sanh.


Nếu căn cứ vào ba tạng giáo điển thì Phật có trước, pháp có sau, vì đức Phật Thích-ca thành Phật rồi mới thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Pháp do Phật nói được ghi chép lại thành pho thành quyển, đó là Phật trước pháp sau. Trong đoạn này có những từ ngữ hơi khó hiểu đó là “sắn bìm lá bối”. Ngày xưa ở Ấn Độ ghi chép những lời Phật dạy trên lá bối rồi kết lại thành thiên. Sau này con người văn minh tiến bộ, sản xuất giấy mực, những lời Phật dạy được in trên giấy thành quyển hẳn hoi, lưu truyền cho chúng ta học đến ngày nay. Chữ sắn bìm là chỉ cho những dây leo, ý nói những lời Phật dạy dù được ghi chép để lại thành ba tạng Kinh, Luật, Luận, cũng chỉ là phương tiện để cho chúng sanh nương theo tu hành, nó không phải là Pháp thân chân thật của chúng ta.


Lời Phật dạy được kết tập lại thành tạng gồm mười hai bộ.


1-   Khế kinh: Là những lời Phật dạy đúng với chân lý được ghi lại bằng văn xuôi.

2-   Ứng tụng: Khi có duyên cớ gì đó, Phật phát lên những lời tụng.

3-   Ký biệt: Thọ ký riêng từng đệ tử tu hành bao nhiêu kiếp, thành Phật ở đâu...

4-   Trùng tụng: Khi giảng xong bài kinh, Phật lập lại ý trên bằng bài tụng.

5-   Tự thuyết: Phật tự kêu các Tỳ-kheo lại thuyết giảng, không chờ thưa hỏi.

6-   Nhân duyên: Tùy theo nhân duyên mà Phật giải thích về nhân duyên các pháp.

7-   Thí dụ: Khi giảng muốn cho dễ hiểu Phật cho ví dụ.

8-   Bản sự: Kinh kể lại những đời quá khứ của Ngài.

9-   Bản sanh: Kinh Phật kể lại những đời quá khứ của đệ tử.

10- Phương quảng: Những bài kinh có ý nghĩa rộng lớn.

11- Vị tằng hữu: Kinh nói lên điều chưa từng có ở đệ tử. Ví dụ ngài A-nan là Thị giả chưa từng có. Phật cần cái gì vừa ngó là Ngài biết đem tới liền.

12- Luận nghị: Kinh bàn luận, phán đoán đúng sai, chân giả để cho người học nắm vững để tu.


Mười hai bộ kinh không phải là mười hai bộ riêng biệt, mà là mười hai thể loại nói kinh của Phật, trong một quyển kinh có nhiều thể loại như kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm... Trong kinh có mỗi phần riêng nói về lý nghĩa riêng gọi là một bộ. Kinh điển có mấy ngàn quyển, Phật nói không ngoài mười hai thể loại này.


Chúng sanh ban đầu nương theo kinh giáo mà xuất gia học đạo, minh tâm kiến tánh, thành công chứng quả, đây là Phật trước pháp sau. Nếu người lượng cao, đủ đại trí tuệ, liền chóng ngộ Trí tự nhiên, không Phật, không kinh, không thầy, Pháp thân vốn rỗng lặng, cùng Phật bình đẳng, quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy. Bởi, quán thật tướng của thân, tức là Pháp thân rỗng rang diệu hữu, Phật và ta đều vô tướng, trong lặng nhiệm mầu, nhất như, tròn đồng thái hư, chân không bình đẳng. Dù học ngàn kinh muôn luận, rốt ráo cũng không vượt ngoài lý này, cuối cùng là viên chứng Phật pháp thân.


Chúng sanh nương theo pháp Phật dạy tu hành ngộ đạo chứng quả Phật cũng gọi là Phật trước pháp sau. Nếu người nào có trí tuệ rộng lớn, chóng ngộ Trí vô sư không Phật không kinh, không thầy, Pháp thân vốn rỗng lặng, cùng Phật bình đẳng. Chúng ta học tất cả kinh tất cả luận và tu để chứng được Pháp thân, Pháp thân thì không còn ngôn ngữ, không còn giáo lý để học, chỉ là Thể tánh tịch diệt sẵn có của tất cả chúng ta. Phật chứng được Pháp thân, chúng ta tu cũng chứng được Pháp thân, đó là chỗ bình đẳng rốt ráo.


Pháp giới bao trùm Cực lạc đường,
Đến cùng biển giác sáng tròn chung.
Như như diệu trạm không thừa thiếu,
Bình đẳng Di-đà chiếu mười phương.


Âm:


Pháp giới hàm dung Cực lạc đường,
Đáo đầu giác hải cộng viên quang.
Như như diệu trạm vô dư khiếm,
Bình đẳng Di-đà chiếu thập phương.


Pháp giới bao trùm Cực lạc đường, đến cùng biển giác sáng tròn chung.


Quyển Kiến Tánh Thành Phật chủ yếu giảng về Thiền, nhưng đến đây Ngài nói về Cực lạc. Cõi Cực Lạc là đích nhắm của người tu Tịnh độ, tuy nhiên theo cái nhìn của Thiền thì “Tự tánh Di-đà, duy tâm Tịnh độ”, Cực lạc Ngài nói ở đây là lý Cực lạc, cho nên pháp giới bao trùm nhà Cực lạc,  Cực lạc không rời pháp giới, đến chỗ cuối cùng thì chung một Giác tánh trong sáng chớ không có riêng.


Như như diệu trạm không thừa thiếu, bình đẳng Di-đà chiếu mười phương.


Pháp giới bao dung không thiếu không dư, Tự tánh Di-đà ai cũng có, và soi sáng khắp mười phương. Như vậy theo cái nhìn của Thiền sư Chân Nguyên đứng về mặt lý tánh thì Thiền và Tịnh không hai, không khác.


Kinh nói: “Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng.” Ứng Phật, Hóa Phật, ba mươi hai tướng, trăm ức Hóa thân, cho đến các duyên cảnh giới trang nghiêm, tất cả Như Lai thần thông thị hiện, quyền bày phương tiện tiếp dẫn chúng sanh, đều chẳng phải lý thật. Bởi lý rốt ráo chân thật tức là hư không, hư không tức là Như Lai, Như Lai tức là không tịch, không tịch tức là Pháp thân, Pháp thân tức là Phật thân. Đây chính là thân Phật, người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành.


Đoạn này có một câu có thể làm cho chúng ta hiểu lầm:

Bởi lý rốt ráo chân thật tức là hư không.


Lý rốt ráo chân thật là chỉ Pháp thân, Pháp thân không tướng mạo nên thường dùng hư không để ví dụ, nhưng hư không thì vô tri vô giác, mà Pháp thân thì linh động có giác tri, làm sao nói tức là hư không? Ví dụ mặt trời mọc chúng ta nhìn vào hư không thấy sáng, mặt trời lặn chúng ta nhìn thấy tối. Vậy sáng tối là hư không hay không phải hư không? Nói là hư không hay không phải hư không cũng không được, vì sáng và tối nó không tướng mạo cho nên nó lẫn trong hư không, ánh sáng rọi vào hư không thì thấy hư không sáng. Mặt trời khuất, bóng tối nó lẫn trong hư không thì thấy hư không tối. Vậy sáng tối đồng với hư không là đồng về mặt rỗng rang không có tướng mạo, mà không đồng ở chỗ hư không không sáng tối. Nếu hư không sáng thì nó không tối, hư không tối là do mặt trời lặn, nếu hư không tối thì nó không sáng, hư không sáng là do mặt trời chiếu rọi. Hư không chỉ là rỗng trơn, chớ không có sáng tối, sáng tối là do mặt trời rọi hay khuất mà thôi. Vậy sáng tối với hư không là một hay khác? Nếu là một thì khi tối là hư không tối, khi sáng là hư không sáng, nhưng sáng tối là do mặt trời hiện và khuất, còn hư không thì không hiện không khuất làm sao nói là một? Như vậy sáng tối khác, nhưng thể của sáng tối nó rỗng, nó không có hình tướng vật chất cụ thể nên nói nó đồng với hư không. Cũng vậy chúng ta mê thì tối, giác thì sáng, mà mê và giác cũng không có tướng mạo, cho nên nó chỉ đồng với hư không về thể không tướng mạo, nhưng nó không đồng ở chỗ hư không thì vô tri mà nó thì tri giác. Do đó nói “lý rốt ráo chân thật tức là hư không” dễ khiến người hiểu lầm cho rằng: tu đến chỗ chân thật không có gì hết.


Như Lai tức là không tịch, không tịch tức là Pháp thân, Pháp thân tức là Phật thân. Đây chính là thân Phật, người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành.


Tất cả mọi người đang ngồi nghe pháp trong giảng đường này đều có thân Phật, song quí vị có chịu làm Phật không hay thích làm chúng sanh? Ai ai khi phát tâm tu cũng mong làm Phật, nhưng thực tế thì không chịu nhận, như vậy có mâu thuẫn không? Đòi làm Phật mà chỉ Phật thì khước từ, chỉ chấp nhận ông Phật tu ở núi Tuyết, thành đạo dưới cội bồ-đề, chớ không chịu nhận ông Phật nơi mình! Phật ở núi Tuyết đã nhập Niết-bàn hơn hai ngàn năm, tìm đâu cho ra? Vậy, phải nhận ông Phật đang hiện hữu nơi mình, nhận được ông Phật nơi mình thì mới hết khổ, nếu không nhận thì dầu chúng ta có lạy đức Phật Thích-ca, đức Phật Di-đà, chư Bồ-tát v.v... cũng không hết khổ, vì Phật ở ngoài không cứu được mình, chỉ có Phật nơi mình mới cứu được mình. Thế nên người nào nhận ra vị Phật nơi mình thì không có gì làm phiền lụy được và cười suốt ngày. Vậy quí vị có chịu nhận vị Phật nơi mình hay là bỏ quên? Vì bỏ quên cho nên tôi bắt phạt ngồi thiền một ngày sáu giờ, nếu nhận ra vị Phật của mình và hằng sống thì không cần ngồi nhiều mà đi đứng nằm ngồi gì cũng an nhiên tự tại.


Ứng, Hóa chư tôn chưa ra đời,
Pháp thân rỗng lặng sẵn vậy thôi.
Tự giác giác tha gọi là Phật,
Từ bi thuyết pháp lợi trời người.
Suốt tột xưa nay vốn như như,
Trong ánh tịch quang rực thái hư.
Trang trọng vượt lên danh tướng pháp,
Chân không đó Phật tự an cư.


Âm:


Ứng, Hóa chư tôn vị xuất tiền,
Pháp thân không tịch bản như nhiên.
Tự giác giác tha danh viết Phật,
Từ bi thuyết pháp lợi nhân thiên.
Cùng kim tuyên cổ bản như như,
Thường tịch quang trung thước thái hư.
Nghiễm hĩ việt siêu danh tướng pháp,
Chân không thị Phật tự an cư.


Ứng, Hóa chư tôn chưa ra đời, Pháp thân rỗng lặng sẵn vậy thôi.


Ý nói rằng chúng ta có sẵn Phật pháp thân, nhưng công hạnh chưa viên mãn, chưa thành Phật nên Phật ứng và hóa thân chưa ra đời. Muốn thành Phật chúng ta phải:


Tự giác giác tha gọi là Phật, từ bi thuyết pháp lợi trời người.


Phật là tự giác giác tha, muốn giác tha thì phải mở lòng từ bi thuyết pháp độ hàng trời người. Cho nên trọng tâm của người đi tu là tự giác, tức là nhận biết mình có sẵn tánh Phật, rồi chỉ dạy cho người nhận ra tánh Phật của họ, đó là giác tha. Như vậy, tự giác giác tha là bổn phận của mỗi người tu hành, viên mãn hai việc trên mới được gọi là Phật.


Suốt tột xưa nay vốn như như, trong ánh tịch quang rực thái hư.


Pháp thân suốt từ xưa tới nay vốn là như như không sanh không diệt, ánh sáng lặng lẽ trùm cả bầu trời.


Trang trọng vượt lên danh tướng pháp, chân không đó Phật tự an cư.


Pháp thân không sanh diệt lặng lẽ sáng suốt vượt tất cả tên gọi và hình tướng của tất cả pháp. Chân không và diệu hữu là chỗ Phật an trú. Thế nào là chân không, thế nào là diệu hữu? Thể Phật lặng lẽ trong sáng không có hình tướng nên gọi là chân không, nhưng tùy duyên ứng hóa thân, thị hiện nhiều phương tiện khéo léo làm lợi ích cho chúng sanh nên biến thành diệu hữu. Vậy thì mỗi người chúng ta đã có sẵn chỗ để an cư. Nhưng an cư có hai: là Sự tướng an cư và Pháp tánh an cư. Sự tướng an cư là ba tháng mùa mưa Tăng Ni tụ hội lại một chỗ để chuyên tu học. Pháp tánh an cư là an cư ở Tự tánh chân không của mình, không giới hạn thời gian nơi chốn, dù đi đâu ở đâu lúc nào cũng an trú trong Pháp tánh bất sanh bất diệt của chính mình. An cư như thế thì không có ngày giải hạ tự tứ, mà an cư suốt đời. Còn chúng ta an cư có thời hạn thì ba tháng an cư tu kỹ, còn những tháng khác thì tu lai rai. An cư trong Pháp tánh thì suốt đời không phiền não khổ đau, an cư trên sự tướng có lúc đang ở trong mùa an cư mà cũng có chuyện buồn phiền hoặc ít, hoặc nhiều, đó là an cư tạm.


Vì vậy trong Chứng Đạo Ca của Đại sư Vô Tướng ở Vĩnh Gia nói:


Rành rành thấy không một vật,
Cũng không người, cũng không Phật.
Cõi cõi đại thiên bọt nổi trôi,
Tất cả Thánh Hiền như điện chớp.


Âm:


Liễu liễu kiến vô nhất vật,
Dã vô nhân dã vô Phật.
Đại thiên sa giới hải trung âu,
Nhất thiết Thánh Hiền như điện phất.


Đến đây Ngài dẫn bài kệ của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác:


Rành rành thấy không một vật, cũng không người, cũng không Phật.


Qua cái nhìn của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác thì cái Thể chân không sáng suốt nhưng không có một vật, cũng không có người không có Phật. Người chỉ cho chúng sanh mê, Phật là giác, không có người mê kẻ giác gì cả.


Cõi cõi đại thiên bọt nổi trôi, tất cả Thánh Hiền như điện chớp.


Từ Thể chân không ứng hiện ra đại thiên sa giới, hay các bậc Thánh Hiền, nhưng tướng ứng hiện chẳng khác nào bọt nổi, làn điện chớp, không thật có. Như vậy tất cả hình tướng thế gian, tất cả ngôn ngữ đối đãi đều là tướng giả dối. Thể chân thật thì vượt tất cả hình tướng ngôn ngữ đối đãi của thế gian. Do đó
Ngài nói thêm:


Chư Phật hiện ra đời là ứng hóa chẳng phải thật, chúng sanh huyễn khởi có danh tướng đều hư dối, phổ thỉnh đạo tràng thủy nguyệt, tỏ ngộ Phật sự không hoa. Thế nào là Phật sự không hoa? Dạy rằng: Tướng không là Thật tướng, thân không tức Pháp thân, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không một vật, không thể nắm bắt, nếu gọi là một vật, lại chẳng trúng lý.


Chư Phật hiện Ứng Hóa thân để hóa độ chúng sanh cũng là giả hiện, khởi ra danh tướng chúng sanh cũng là hư dối. Do đó nên:


Phổ thỉnh đạo tràng thủy nguyệt, tỏ ngộ Phật sự không hoa
.


Thế nào là phổ thỉnh đạo tràng thủy nguyệt? Phổ thỉnh tức là mời khắp, đạo tràng thủy nguyệt là đạo tràng trăng đáy nước. Nghĩa là xin mời mọi người sanh hoạt trong một cái đạo tràng hư dối như bóng mặt trăng hiện trong nước. Bây giờ chúng ta đổi Thiền viện Trúc Lâm thành đạo tràng thủy nguyệt và mỗi ngày chúng ta sanh hoạt thì chắc chắn chúng ta cười hoài, không có điều gì bực bội khiến chúng ta nặng lời với nhau. Giả sử có một cái hồ nước, đêm rằm trăng sáng, mấy đứa nhỏ nhìn xuống hồ thấy mặt trăng, chúng nhảy ùm xuống hồ đua nhau vớt mặt trăng, chúng quậy nước hồ chao động nhưng không vớt được, chúng tát cạn nước thì mặt trăng cũng mất luôn. Như vậy thì chúng ta tu phải sống trong đạo tràng thủy nguyệt đó.

Thế nào là Phật sự không hoa? Ngài khuyên chúng ta làm Phật sự phải biết Phật sự mình đang làm cũng hư dối như hoa đốm trong hư không. Sở dĩ chúng ta thấy trong hư không có hoa đốm chớp chớp là do mắt chúng ta bị bệnh. Khi mắt hết bệnh thì thấy hư không trong suốt không có hoa đốm, như vậy là hoa đốm không thật. Song, ngày nay chúng ta làm Phật sự thì có hoa, lại còn xâu thành tràng, để người nào có danh dự chúng ta tặng tràng hoa đeo vào cổ. Hồi tôi đi ngoại quốc, lúc xuống phi trường Hawaii được người ta tặng nhiều tràng hoa đeo vào cổ nặng trĩu, mà lấy xuống liền thì mất lịch sự, phải đi ra tới phòng khách cho họ chào đón, chụp ảnh, quay phim rồi mới được lấy ra, thật là mệt. Như vậy tỏ ngộ Phật sự đa hoa là vướng bận, mà vướng bận là khổ. Ứng dụng Phật sự không hoa thì đời tu chúng ta thật sự giải thoát sung sướng vô cùng. Tuy nhiên nhiều người thích đa hoa hơn là không hoa. Như ở Thiền viện Trúc Lâm này mà mỗi sáng mọi người nghe Tri sự phổ thỉnh, tất cả đều vui vẻ vác cuốc, mang xẻng, xách thùng đi làm việc, tâm an nhiên thanh tịnh, là chúng ta đang phổ thỉnh trong đạo tràng thủy nguyệt. Chừng nào tỏ ngộ, đạo lực vững vàng, tôi cử đi làm Phật sự thì nhớ làm Phật sự không hoa, chớ làm Phật sự đa hoa.


Thế nào là Phật sự không hoa? Dạy rằng: Tướng không là Thật tướng, thân không tức Pháp thân, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không một vật, không thể nắm bắt, nếu gọi là một vật, lại chẳng trúng lý.


Ngài dạy Phật sự không hoa là nhận ra chỗ sạch trọi trống trơn, thênh thang, nói một vật cũng chẳng trúng. Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng từ Tung Sơn đến tham vấn Lục tổ Huệ Năng ở Tào Khê, Tổ hỏi:


- Ở đâu đến?


Ngài thưa:


- Ở Tung Sơn đến.


Tổ hỏi:


- Vật gì đến?


Ngài thưa:


- Nói in tuồng một vật tức không trúng.


- Lại có thể tu chứng chăng?


- Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được.


Đó mới là Phật sự không hoa. Chúng ta thấy người xưa một phen nhìn, một phen thấy trình bày đúng với lý đạo chân thật.


Có nói đều thành báng,
Không lời cũng chẳng dung.
Vì anh thông một lối,
Trời mọc núi đông hồng.


Âm:


Hữu thuyết giai thành báng,
Vô ngôn diệc bất dung.
Vị bỉ thông nhất tuyến,
Nhật xuất lãnh đông hồng.


Có nói đều thành báng, không lời cũng chẳng dung.


Nói có nói không, nói thật nói giả, nói phải nói quấy là chê bai vị Phật của mình. Chỗ chân thật nói ra thì trật, nhưng làm thinh không nói gì cả cũng không đúng. Tại sao? Vì ngôn ngữ không thể nói đến chỗ chân thật, nhưng mượn ngôn ngữ để chỉ chỗ chân thật cho người nhận ra. Nếu cho rằng chỗ chân thật là chân không nên làm thinh không nói gì cả thì có lợi gì cho ai. Cho nên nói ra lời mà xác nhận đúng sai, là chê bai Phật, còn nói rằng im lặng là đúng cũng sai luôn, do đó nói hay nín đều sai cả.


Vì anh thông một lối, trời mọc núi đông hồng.


Ngài vì chúng sanh vạch ra một lối. Khi ánh sáng mặt trời lên thì ngọn núi phía Đông có màu sáng hơi hồng hồng. Màu sáng hồng hồng ở núi Đông là do mặt trời mọc mà có. Khi chúng ta giác ngộ rồi, mọi hiện tượng chung quanh cũng sáng như mặt trời lên, không phải là không ngơ. Như vậy thì đừng bảo nói là trúng hay nín là trúng, mà chỉ tùy duyên, vì mê dù nói hay nín cũng đều sai, mà ngộ thì nói gì cũng đều đúng. Đó là tùy duyên mê ngộ mà hiện.


Chư Phật giáo hóa chúng sanh, ví như bà dạy cháu, tùy cơ mà ẩn hiện. Phương tiện có nhiều thứ. Cho nên nuôi cơm là thương con trẻ, nước uống là ngừa nó khát. Gượng gọi tên là Phật, là Tổ, là Thiền tông, là chỉ thú, là hư không Pháp thân, là Thật tướng vô tướng. Thật tướng vô tướng, là vượt lên tên gọi và hình tượng, thể vốn vô sanh, nhưng vì gượng nêu tên để chỉ bày cho người sau. Vì vậy nói: Pháp thân lồ lộ, Thật tướng rành rành, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, bao gồm cả trời đất, suốt thấu cả núi sông, đối diện ngay trước mặt, chân thật rỗng rang mênh mông, viên dung cả pháp giới, trong lặng như như, không tướng không tên, không lời không nói, chẳng sanh chẳng diệt, không đến không đi, ứng vật hiện hình như trăng trong nước. Tùy duyên ứng ra hình chất, thì mượn sắc mà thành hình; nương theo loại mà hóa thân, thì quán âm thanh nói rộng giáo pháp. Nói năng bày tỏ nơi lá bối, là chân ngôn mà chẳng phải chân ngôn; tướng hiển hiện nơi hoa sen, nếu có tướng thì đâu từng có tướng. Xưng Phật xưng Tổ, trị kẻ dưới mà tạm mượn tên; rất diệu rất huyền, tối thượng vô tướng; thường lạc ngã tịnh, tột lý mà chứng biết; Pháp thân vô vi, vượt lên trên Phật Tổ; tên Phật hiệu Tổ cũng là giả danh; Pháp tánh chân không, trọn không một vật. Người học tham Thiền thấu đến tột cùng, nên nói đã thấu đến chỗ ruộng đất cố hương, đã được chỗ an thân lập mạng, chỗ thường lạc ngã tịnh, chỗ sanh tử chẳng dính dáng. Ruộng đất cố hương, là chỗ rỗng thênh bát ngát, đến ruộng đất ấy, thì một chữ Phật cũng là vật ở bên ngoài căn trần.


*


Chư Phật giáo hóa chúng sanh, ví như bà dạy cháu, tùy cơ mà ẩn hiện.


Ngài nói chư Phật giáo hóa chúng sanh như bà dạy cháu. Một hôm tôi ngồi bên thất, thấy có một chú chừng bốn chục tuổi dẫn một đứa bé khoảng bảy tám tuổi, đứa bé đòi vô cái lùm rậm, có lẽ nó muốn hái hoa. Chú bèn nói: đừng vô, ông kẹ đó con. Thằng bé sợ không dám vô. Như vậy ông kẹ không có nhưng muốn dọa thằng bé nên nói ông kẹ. Cũng thế bà già dạy cháu cũng phải nói những chuyện vu vơ để răn cháu. Như mẹ cháu đi chợ hoặc đi làm ngoài đồng, cháu khóc bà dỗ thì phải xí gạt: má con sắp về, sẽ cho con rất nhiều bánh, nín đi. Nói thế nhưng thật sự bà chưa thấy má cháu về, nhưng vì muốn cháu nín khóc bà phải nói gạt. Cũng thế chúng sanh đang phiền não khổ đau, Phật dạy ráng tu để nhập Niết-bàn hay về Cực Lạc, nơi đó an vui vô cùng; nơi đó sống hoài không chết. Đúng với hai điều tham muốn của người thế gian là tham vui sướng và tham sống lâu. Thế nên gặp nhau mọi người chúc tụng sống bá niên giai lão, còn vua chúa thì chúc “vạn tuế vạn vạn tuế” để đáp ứng những điều tham muốn cho nhau. Đó là chúng sanh đang khổ, Phật dạy tu để hết khổ được vui. Hằng ngày nhìn thấy người đang sống mạnh khỏe bỗng ngã bệnh chết, để lại bao nhiêu người thương nhớ khóc than. Hằng ngày trên báo đều có tin chia buồn hoặc báo tang, cái chết kề ở bên ai cũng sợ, nên Phật dạy tu để chứng Niết-bàn thanh tịnh, không còn sanh tử khổ đau. Nghe như thế chúng sanh ham tu để được an vui và bất tử. Đó là đức Phật dùng phương tiện để giáo hóa chúng sanh, như bà già đem bánh dỗ con nít.


Tuy nhiên chúng ta đừng hiểu lầm rằng, Phật xí gạt mình tu rồi cuối cùng không được gì hết, giống như bà già nói gạt để dỗ cháu nín chớ không có sự thật. Đó là một lối nói thí dụ, thực tế thì tu là bỏ tất cả để được tất cả, chớ không phải không được gì hết, được tất cả là vì chân không mà diệu hữu, thể nó là không tịch mà tùy duyên ứng hiện lợi lạc quần sanh. Khi tu hành đạt được an vui cho mình rồi thấy chúng sanh còn mê lầm, chúng ta bèn đi vào trong sanh tử để giáo hóa họ. Nhưng đi vào sanh tử mà như đi dạo vườn hoa thì đâu có khổ. Chúng sanh mê lầm nên ở trong cảnh khổ thì kêu trời đất than khổ, Bồ-tát giác ngộ đi trong sanh tử làm lợi ích cho chúng sanh không sợ không chán. Vì đánh thức cho chúng sanh tỉnh cơn mê mà Bồ-tát sẵn sàng đi trong cảnh khổ sanh tử, chớ không vội vào Niết-bàn để hưởng vui một mình. Đó là Bồ-tát ở trong đạo tràng thủy nguyệt làm Phật sự không hoa. Như vậy thì thể nhập được Tự tánh thanh tịnh là có muôn ngàn diệu dụng tùy duyên giáo hóa chúng sanh. Đó là được tất cả, chớ không phải tu rồi cuối cùng chẳng được gì.

Phương tiện có nhiều thứ. Cho nên nuôi cơm là thương con trẻ, nước uống là ngừa nó khát. Gượng gọi tên là Phật, là Tổ, là Thiền tông, là chỉ thú, là hư không Pháp thân, là Thật tướng vô tướng. Thật tướng vô tướng, là vượt lên tên gọi và hình tượng, thể vốn vô sanh, nhưng vì gượng nêu tên để chỉ bày cho người sau. Vì vậy nói: Pháp thân lồ lộ, Thật tướng rành rành, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, bao gồm cả trời đất, suốt thấu cả núi sông, đối diện ngay trước mặt, chân thật rỗng rang mênh mông, viên dung cả pháp giới, trong lặng như như, không tướng không tên, không lời không nói, chẳng sanh chẳng diệt, không đến không đi, ứng vật hiện hình như trăng trong nước. Tùy duyên ứng ra hình chất, thì mượn sắc mà thành hình; nương theo loại mà hóa thân, thì quán âm thanh nói rộng giáo pháp. Nói năng bày tỏ nơi lá bối, là chân ngôn mà chẳng phải chân ngôn; tướng hiển hiện nơi hoa sen, nếu có tướng thì đâu từng có tướng. Xưng Phật xưng Tổ, trị kẻ dưới mà tạm mượn tên; rất diệu rất huyền, tối thượng vô tướng; thường lạc ngã tịnh, tột lý mà chứng biết; Pháp thân vô vi, vượt lên trên Phật Tổ; tên Phật hiệu Tổ cũng là giả danh; Pháp tánh chân không, trọn không một vật. Người học tham Thiền thấu đến tột cùng nên nói đã thấu đến chỗ ruộng đất cố hương, đã được chỗ an thân lập mạng, chỗ thường lạc ngã tịnh, chỗ sanh tử chẳng dính dáng. Ruộng đất cố hương là chỗ rỗng thênh bát ngát. Đến ruộng đất ấy, thì một chữ Phật cũng là vật ở bên ngoài căn trần.


Đoạn này Ngài nói một mạch những từ ngữ để chúng ta hiểu. Vì phương tiện của Phật Tổ giống như phương tiện của bà già dạy cháu. Phật Tổ vì chúng sanh mê nên lập danh từ Phật, lập danh từ Tổ, lập danh từ Thiền, lập ra chỉ thú... Còn Thể chân thật là Pháp thân, là Thật tướng vô tướng, nó vượt ra ngoài tên gọi hình tướng, nó không sanh diệt, nhưng gượng đặt tên, vẽ ra hình tượng, để dẫn dắt những người mê giống như bà già tìm phương tiện để dỗ đứa cháu nín khóc. Thật ra thì Pháp thân luôn luôn hiện tiền, không lúc nào thiếu vắng nơi mỗi chúng ta. Như ở trước tôi nói cái hay thấy không có tướng mạo, vậy có chụp hình được cái hay thấy không? Cái hay thấy bình hoa, chúng ta chụp hình bình hoa chớ không thể chụp hình cái hay thấy được bình hoa. Vì cái có hình tướng thì người ta chụp được bóng của nó, còn cái không tướng mạo thì không có bóng, không có bóng nhưng mà có thấy. Cho nên hỏi cái hay thấy của thầy ra sao thì không tả được, hỏi bình hoa ra sao thì diễn tả được. Như vậy chúng ta thấy người thấy vật thì diễn tả được người vật, mà không diễn tả được cái hay thấy. Không diễn tả được nhưng không phải không có. Nếu không làm sao thấy được người được vật? Tuy nhiên, có người hiểu lầm nếu không diễn tả được thì nói gạt sao. Như tôi nói rằng: “Tôi có Phật tánh.” Có người hỏi: “Phật tánh ra sao chỉ tôi coi?” Phật tánh không có tướng mạo làm sao chỉ? Do đó dù có nói thật đối với người không tin, không nhận ra họ cũng cho là nói đùa. Không phải không diễn tả chỉ bày được mà không có. Cái chân thật luôn luôn hiện tiền mà không chỉ ra được. Song, tôi nói đông nói tây, chợt có người nhận ra, như vậy người đó được chỉ chưa? Trong nhà Thiền nói người đó là người mắt sáng, mắt sáng là tâm sáng chớ không phải con mắt thịt sáng. Còn chúng ta, Thể chân thật hiện hữu trước mắt mà không nhận ra là tâm tối. Tâm tối nên không nhận ra cái hiện tiền, còn mắt thì nhìn thấy cảnh vật như đường xá, cây cối, nhà cửa v.v... Người nhận ra Thể chân thật của mình họ tự biết chớ không diễn tả cho ai biết được. Cho nên danh từ Phật Tổ cũng là tạm đặt chớ không có thật. Lại nói nó rất diệu, rất huyền, tối thượng, vô tướng, thường, lạc, ngã, tịnh v.v... là để cho người nghe thỏa mãn từ ngữ, thỏa mãn lòng khao khát, chớ thật ra dùng ngôn ngữ không nói đến chỗ tột cùng. Vì vậy ở đoạn này nói người tham Thiền thấu đến chỗ tột cùng, là trở về chỗ ruộng đất cố hương. Cố hương là quê hương cũ của mình phải không? Là nơi chôn nhau cắt rốn của mọi người, nơi đó có nhà cửa, có lũy tre, có đủ thứ, người ngộ đạo trở về cố hương đó phải không? - Người thấu chỗ tột cùng trở về cố hương là trở về Thể chân không, nhưng chân không mà diệu hữu, nên bao nhiêu hình tướng tạm bợ của thế gian đều lưu xuất từ đó. Đó là về cố hương của người ngộ đạo, nên Ngài nói ruộng đất cố hương là chỗ rỗng thênh bát ngát, đến ruộng đất ấy thì một chữ Phật cũng là Phật ở ngoài căn trần. Như vậy cố hương là chỗ không còn đối đãi Phật và chúng sanh. Vì Phật và chúng sanh là cái đối đãi ở bên ngoài của căn trần.


Như vậy, Phật còn không đắm trước, huống nữa là Chân như Phật tánh, Bồ-đề Niết-bàn, chỗ nào có được? Thấu tột, thấu tột rành rành không một vật, thì không phàm Thánh, không thứ lớp, không danh tướng, không thềm bực, không số kiếp, không giờ khắc, không tôn ti, không xưa không nay, không được không mất, không một không hai, không phải không quấy, không tịnh không loạn, không sanh không tử, không Phật không chúng sanh, không bờ mé không làm ra, không tu không chứng; không thường không trụ và chẳng không thường trụ, vốn không Niết-bàn, chẳng phải chẳng không Niết-bàn, vốn không thành Phật và chẳng không thành Phật; cũng không tỏ rõ trong cái tỏ rõ, cũng không trong lặng trong cái trong lặng, cũng không cái thể trong lặng, cũng không cái dụng trong lặng; cũng không thế ấy nói cái trong lặng, cũng không thế ấy thọ cái trong lặng; ba cái không đều không, chỉ một cái trong lặng tròn đầy, mà một cũng chẳng một, nguồn trở lại nguồn.


*


Như vậy, Phật còn không đắm trước, huống nữa là Chân như Phật tánh, Bồ-đề Niết-bàn, chỗ nào có được?


Ngài nói Chân như, Phật tánh, Bồ-đề, Niết-bàn là những từ ngữ tạm đặt, còn chỗ chân thật thì không từ ngữ nào nói đến được, chỉ tự mình sống, tự mình an trú, chớ không có ngôn ngữ nào diễn đạt được chỗ đó. Vì từ ngữ lập ra là căn cứ trên ngôn thuyết mà ngôn thuyết là do vọng tưởng khởi, mà vọng tưởng thì không thật làm sao diễn đạt được cái thật?


Thấu tột, thấu tột rành rành không một vật, thì không phàm Thánh, không thứ lớp, không danh tướng, không thềm bực, không số kiếp, không giờ khắc, không tôn ti, không xưa không nay, không được không mất, không một không hai, không phải không quấy, không tịnh không loạn, không sanh không tử, không Phật không chúng sanh, không bờ mé không làm ra, không tu không chứng; không thường không trụ và chẳng không thường trụ, vốn không Niết-bàn, chẳng phải chẳng không Niết-bàn, vốn không thành Phật và chẳng không thành Phật; cũng không tỏ rõ trong cái tỏ rõ, cũng  không  trong lặng trong cái trong lặng, cũng không cái thể trong lặng, cũng không cái dụng trong lặng; cũng không thế ấy nói cái trong lặng, cũng không thế ấy thọ cái trong lặng; ba cái không đều không, chỉ một cái trong lặng tròn đầy, mà một cũng chẳng một, nguồn trở lại nguồn.


Đoạn này tóm lại có ba cái không. Một là không phủ định, như không phàm không Thánh, không danh tướng v.v... Hai là không vừa phủ định lại vừa khẳng
định, như không thường trụ và chẳng không thường trụ, chẳng không thường trụ tức là có, như vậy vừa phủ định lại vừa khẳng định chớ không phải phủ định suông. Ba là vừa không vừa có, nghĩa là cái không nằm sẵn trong cái có, như cũng không tỏ rõ trong cái tỏ rõ, cũng không trong lặng trong cái trong lặng... Bởi vì tất cả pháp không riêng rẽ, không tách rời nhau, cho nên cái phủ định lại ở trong cái khẳng định, dù nói có nói không, rốt cuộc cũng chỉ ở trong vòng đối đãi. Thật sự đầy đủ ý nghĩa là vừa tịch tĩnh vừa có diệu dụng, không phải tịch tĩnh rồi thầm lặng luôn. Thế nên thành Phật, thể nhập Pháp thân không hình tướng, nhưng có đầy đủ diệu dụng để giáo hóa chúng sanh. Như vậy trong cái không hình tướng lại có hình tướng tùy duyên thị hiện, không thể lấy cái gì để đo lường, nên nói không được, mà cảm thọ cũng không được. Vì nói là còn đối đãi, thọ là còn cảm giác, có cảm giác là có hình tướng, mà thể trong sáng không hình tướng, làm sao có cảm giác, có đối đãi?