CÁC BÀI TỤNG VỀ DUY THỨC

Thursday, 01 May 20254:57 PM(View: 289)
CÁC BÀI TỤNG VỀ DUY THỨC
BÁT THỨC QUY CỦ TỤNG
Thích Thiện Hạnh dịch

TIỀN NGŨ THỨC TỤNG

Tụng văn:

性境現量通三性
眼耳身三二地居
遍行別境善十一
中二大八貪嗔癡

五識同依凈色根
九緣八七好相鄰
合三離二觀塵世
愚者難分識與根

變相觀空唯後得
果中猶自不詮真
圓明初發成無漏
三類分身 息苦輪

Phiên âm:
Tánh cảnh hiện lượng thông tam tánh,
Nhãn nhĩ thân tam nhị địa cư.
Biến hành biệt cảnh thiện thập nhất,
Trung nhị đại bát tham sân si.

Ngũ thức đồng y tịnh sắc căn,
Cửu duyên bát thất hảo tương lân.
Hiệp tam ly nhị quán trần thế,
Ngu giả nan phân thức dự căn.

Biến tướng quán không duy hậu đắc,
Quả trung do tự bất thuyên chân.
Viên minh sơ phát thành vô lậu,
Tam loại phân thân tức khổ luân.

Việt dịch:
Tánh cảnh, hiện lượng và thông gồm ba tánh,
Lên sơ thiền nhị địa, chỉ còn lại ba thức (nhãn, nhĩ và thân).
Hai trung tuỳ, tám đại tuỳ và ba căn bản phiền não (tham, sân si),
Năm thức trước đều nương tịnh sắc căn
Nhãn thức có 9 duyên, nhĩ 8; tỷ, thiệt thân mỗi thức có 7 duyên hoà hợp mới sanh khởi.
Tỷ, thiệt và thân thức phải hiệp với trần mới duyên (phân biệt) được cảnh. Còn hai thức nhãn và nhĩ phải cách xa trần mới phân biệt được cảnh.
Hàng phàm phu nhị thừa, không phân biệt được giữa thức và căn.
Năm thức trước đối với các pháp hữu tướng, phải nhờ hậu đắc trí quán chiếu để thấy rõ chúng đều là pháp vô tướng.
Hậu đắc trí, trong quả vị còn chưa trực tiếp duyên được chân như.
Đến lúc thức thứ tám chuyển thành đại viên cảnh trí, thì năm thức trước mới được thành vô lậu, nên có thể hiện ba loại thân để cứu giúp chúng sanh thoát khổ sanh tử luân hồi.

ĐỆ LỤC THỨC TỤNG

Tụng văn:
三性三量通三境
三界輪時易可知
相應心所五十一
善惡臨時別配之

性界受三恆轉易
根隨信等總相連
動身發語獨為最
引滿能招業力牽

發起初心歡喜地
俱生猶自現纏眠
遠行地後純無漏
觀察圓明照大千

Phiên âm:
Tam tánh tam lượng thông tam cảnh,
Tam giới luân thời dị khả tri.
Tương ưng tâm sở ngũ thập nhất,
Thiện ác lâm thời biệt phối chi.

Tánh giới thọ tam hằng chuyển dịch,
Căn tuỳ tín đẳng tổng tương liên.
Động thân phát ngữ độc vi tối,
Dẫn mãn năng chiêu nghiệp lực khiên.

Khởi phát sơ tâm hoan hỷ địa,
Câu sanh do tự hiện triền miên.
Viễn hành địa hậu thuần vô lậu,
Quan sát viên minh chiếu đại thiên.

Việt dịch:
Đệ lục thức đủ ba tánh, ba lượng, ba cảnh,
Tạo nhân thọ quả luân chuyển ba cõi.
Đệ lục thức tương ưng với cả 51 tâm sở,
Khi đệ lục thức khởi niệm thiện, niệm ác đều có riêng các tâm sở thiện, ác phối hợp sanh khởi.
Đệ lục thức đối với ba tánh, ba cõi ba thọ luôn luôn thay đổi.
Các tâm sở căn bản phiền não, tuỳ phiền não, thiện… luôn luôn bám sát không rời.
Động thân, phát lời tạo thiện, tạo ác… đệ lục thức thủ vai trò tối hệ trọng.
Đệ lục thức tạo dẫn nghiệp, mãn nghiệp, chiêu cảm quả báo dắt dẫn mai sau.
Đến khi sơ tâm phát khởi chứng hoan hỷ địa (sơ địa),
Thời gian này, câu sanh ngã pháp chấp vẫn còn tồn tại tiềm tàng.
Lên viễn hành địa (địa thứ bảy trong mười địa) về sau thức này mới thuần vô lậu.
Đệ lục thức chuyển thành diệu quan sát trí, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới tuỳ cơ độ sanh.

ĐỆ THẤT THỨC TỤNG

Tụng văn:
帶質有覆通情本
隨緣執我量爲非
八大遍行別境慧
貪癡我見慢相隨

恆審思量我相隨
有情日夜鎭昏迷
四惑八大相應起
六轉呼為染浄依

極喜初心平等性
無功用行我相推
如來现起他受用
十地菩薩所被機

Phiên âm:
Đới chất hữu phú thông tình bổn,
Tuỳ duyên chấp ngã lượng vi phi.
Bát đại biến hành biệt cảnh tuệ,
Tham si ngã kiến mạn tương tuỳ.

Hằng thẩm tư lương ngã tương tuỳ,
Hữu tình nhật dạ trấn hôn mê.
Tứ hoặc bát đại tương ưng khởi,
Lục chuyển hô vi nhiễm tịnh y.

Cực hỷ sơ tâm bình đẳng tánh,
Vô công dụng hạnh ngã hằng tồi.
Như lai hiện khởi tha thọ dụng,
Thập địa Bồ tát sở bị cơ.

Việt dịch:
Trong ba cảnh thức thứ bảy chỉ có đới chất cảnh; trong ba tánh chỉ có hữu phú vô ký tánh. Tính năng duyên (thức thứ bảy) và bản chất sở duyên (thức thứ tám), không tương cách mà liên hệ mật thiết.
Tuỳ nghiệp duyên của chúng sanh thác sinh ở đâu thì thức này sanh ở đó mà chấp ngã. Và trong ba lượng nó thuộc phi lượng.
Các tâm sở tương ưng với thức thứ bảy, gồm: Tám đại tuỳ, năm biến hành và tuệ trong năm biệt cảnh. Ngoài ra còn tương ưng với bốn căn bản phiền não là tham, si, mạn và ngã kiến.
Thức thứ bảy thường suy xét nghiền ngẫm về cái ngã tướng của nó, không hề rời bỏ. Vì chấp ngã tướng nên làm cho chúng sanh cứ ngày đêm chìm đắm trong mê muội tối tăm.
Thức thứ bảy tương ưng với bốn căn bản phiền não (si, kiến, mạn, ái) và tám tâm sở đại tuỳ để sinh khởi.
Chuyển thức thứ sáu, gọi thức thứ bảy là chỗ nương tựa nhiễm hay tịnh của sáu thức trước.
Hành giả tu tập hành trì chừng lên đến Hoan hỷ địa nhập tâm (sơ tâm), thì thức thứ bảy chuyển thành Bình đẳng tánh trí.
Đến địa thứ tám, Bất động địa cũng gọi là vô công dụng hạnh, bấy giờ chủng tử ngã chấp không còn nữa.
Khi thức thứ bảy chuyển thành Bình đẳng tánh trí, thì ở trong quả vị Phật hiện ra hai loại thân, Tự thọ dụng thân và Tha thọ dụng thân.
Để giáo hoá căn cơ hàng Thập địa Bồ tát.

ĐỆ BÁT THỨC TỤNG

Tụng văn:
性唯無覆五遍行
界地隨他業力生
二乘不了因迷執
猶此能興論主諍

浩浩三藏不可窮
淵深七浪境為風
受熏持種根身器
去後來先作主翁

不動地前纔捨藏
金剛道後異孰空
大圓無垢同時發
普照十方塵剎中

Phiên âm:
Tánh duy vô phú ngũ biến hành,
Giới địa tùy tha nghiệp lực sanh.
Nhị thừa bất liễu nhân mê chấp,
Do thử năng hưng luận chủ tranh.

Hạo hạo tam tàng bất khả cùng,
Uyên thâm thất lãng cảnh vi phong.
Thọ huân trì chủng căn thân khí,
Khứ hậu lai tiên tác chủ ông.

Bất đông địa tiền tài xả tàng,
Kim cang đạo hậu dị thục không.
Đại viên vô cấu đồng thời phát,
Phổ chiếu thập phương trần sát trung.

Việt dịch:
Thức thứ tám, chỉ có vô phú vô ký tánh, và tương ưng với năm tâm sở biến hành.
Tuỳ theo nghiệp lực (bảy thức) dắt dẫn, mà thức này ra vào trong ba cõi chín địa.
Hàng nhị thừa không hiểu ngoài sáu thức, còn có thức thứ bảy và thức thứ tám. Do đó mà sanh mê chấp.
Cho nên các nhà luận sư nêu lên nhiều bằng chứng trong kinh luận làm sáng tỏ.
Thức thứ tám, có ba nghĩa tàng rộng rãi sâu sắc, không cùng tận.
Bảy thức trước như những đợt sóng nhấp nhô, thức thứ tám như biển tịnh sâu lặng, trần cảnh như gió thổi vào bảy thức, dấy khởi những đợt sóng làm lay động biển tịnh thức thứ tám.
Thức thứ tám, có công năng để cho chủng tử các pháp huân vào tạng thức (thọ và huân), bảo trì (trì)

30  BÀI TỤNG VỀ DUY THỨC

1. Chánh văn:
由假說我法
有種種相轉
彼依識所變
此能變唯三

Phiên âm
Do giả thuyết ngã pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyển
Bỉ y thức sở biến
Thử năng biến duy tam.

Việt dịch:
Vì giả mà nói ngã và pháp thôi, chứ thật sự bên trong cái ngã và pháp ấy, có vô vàn tướng trạng sinh diệt chuyển biến. Chúng nương nơi thức mà có, chúng là đối tượng sở biến (bị thức biến) của thức, còn chủ thể năng biến (thức) thì có 3 loại.

Chánh văn:
謂異熟思量
及了別境識
初阿賴耶識
異熟一切種

不可知執受
處了常與觸
作意受想思
相應唯捨受

是無覆無記
觸等亦如是
恆轉如暴流
阿羅漢位捨

Phiên âm:
Vị dị thục tư lương
Cập liễu biệt cảnh thức
Sơ Alaya thức
Dị thục nhất thiết chủng.

Bất khả tri chấp thọ
Xứ, liễu, thường dự xúc
Tác ý, thọ, tưởng, tư

Tương ưng duy xả thọ.
Thị vô phú vô ký
Xúc đẳng diệc như thị
Hằng chuyển như bộc lưu
A la hán vị xã.

Việt dịch:
Đó là thức dị thục, thức tư lương và thức liễu biệt cảnh. Thức năng biến thứ nhât là Alaya, còn gọi là dị thục thức, hay nhất thiết chủng thức. Chúng ta không thể biết được sinh hoạt tướng phần (chấp thọ và xư) và kiến phần (liễu) của Alaya thức. Khi duyên cảnh, nó chỉ tương ưng với 5 biến hành tâm sở là xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư là riêng về cảm thọ, nó chỉ tương ưng với xả thọ mà thôi. Tánh của Alaya thức là vô phú vô ký, nên những tâm sở tương ưng với nó, cũng là vô phú vô ký. Thức này chuyển biến như một dòng nước chảy xiết, không bao giờ dừng nghỉ. Đến lúc chứng quả vị A la hán, mới xả bỏ được thức này

Chánh văn:
次第二能變
是識名末那
依彼轉緣彼
思量為性相

四煩惱常俱
謂我癡我見
並我慢我愛
及餘觸等俱

有覆無記攝
隨所生所繫
阿羅漢滅定
出世道無有

Phiên âm:
Thứ đệ nhị năng biến
Thị thức danh mạt na.
Y bỉ chuyển duyên bỉ,
Tư lương vi tánh tướng.

Tứ phiền não thường câu,
Vị ngã si ngã kiến.
Tịnh ngã mạn ngã ái,
Cập dư xúc đẳng câu.

Hữu phú vô ký nhiếp,
Tuỳ sở sanh sở hệ.
A la hán diệt định,
Xuất thế đạo vô hữu.

Việt dịch:
Thứ đến là thức Năng Biến thứ hai, thức này có tên là Mạt na. Nó nương vào Alaya mà sinh khởi, rồi trở lại duyên Alaya chấp làm tự ngã. Tánh và tướng của nó là tư lương. Năng biến 2 thường tương ưng với 4 món phiền não: Ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái. Ngoài ra, thức này còn tương ưng với nhóm tâm sở 5 biến hành, 8 đại tùy và tuệ trong năm biệt cảnh. Tánh chất của năng biến 2 này là hữu phú vô ký. Alaya thác sanh ở đâu, nó sanh ở đó mà chấp ngã. Có 3 trường hợp để xả bỏ năng biến 2: A la hán, diệt tận định và xuất thế đạo.

Chánh văn:
次第三能變
差別有六種
了境為性相
善不善俱非

此心所變行
別境善煩惱
隨煩惱不定
皆三受相應

Phiên âm:
Thứ đệ tam năng biến,
Sai biệt hữu lục chủng.
Liễu cảnh vi tanh tướng,
Thiện bất thiện câu phi.

Thử tâm sở biến hành,
Biệt cảnh thiện phiền não.
Tuỳ phiền não bất định,
Giai tam thọ tương ưng.

Việt dịch:
Kế đến là thức năng biến thứ 3, phân biệt có 6 loại khác nhau. Tánh và tướng của năng biến 3 là liễu cảnh, phân biệt cảnh giới bên ngoài. Nhóm thức này đầy đủ cả 3 tánh: Thiện – ác – vô ký. Những tâm sở tương ưng với năng biến 3, gồm có 5 biến hành, 5 biệt cảnh, 11 thiện, 6 căn bản phiền não, 20 tùy phiền não, 4 bất định và 3 thọ.

Chánh văn:
初遍行觸等
次別境謂欲
勝解念定慧
所緣事不同

Phiên âm:
Sơ biến hành xúc đẳng,
Thứ biệt cảnh vị dục.
Thắng giải niệm định tuệ,
Sở duyên sự bất đồng.

Việt dịch:
Loại tâm sở đầu tiên trong 6 loại, gọi là biến hành. Biến hành có 5, đó là: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư. Thứ đến là biệt cảnh. Biệt cảnh cũng có 5, đó là: Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Tuệ. Cảnh sở duyên của 5 biệt cảnh này không đồng nhau.

Chánh văn:
善謂信慚愧
無貪等三根
勤安不放逸
行捨及不害

Phiên âm:
Thiện vị tín tàm quý,
Vô tham đẳng tam căn.
Cần an bất phóng dật,
Hành xả cập bất hại

Việt dịch:
Kế đến là các tâm sở thiện. Thiện có 11 món là: Tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si (tam căn), cần, khinh an, bất phóng dật, hành xả và bất hại.

Chánh Văn:
煩惱謂貪瞋
癡慢疑惡見
隨煩惱謂忿
恨覆惱嫉慳

誑諂與害儌
無慚及無愧
棹舉與惛沉
不信並懈怠

放逸及失念
散亂不正知
不定謂悔眠
尋祠二各二

Phiên âm:
Phiền não vị tham sân,
Nghi mạn nghi ác kiến.
Tuỳ phiền não vị phẫn,
Hận phú não tật xan.

Cuống siễm dữ hại kiêu,
Vô tàm cập vô quý.
Trạo cử dữ hôn trầm,
Bất tín tịnh giãi đãi.

Phóng dật cập thất niệm,
Tán loạn bất chánh tri.
Bất định vị hối miên,
Tầm từ nhị các nhị.

Việt dịch:
Căn bản phiền não gồm: Tham, sân, si, mạn nghi, ác kiến. Tùy phiền não là: phẫn, hận, phú, não, tật xan, cuống siểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đải, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri. Bất định là: Hối, miên, tầm, từ. Tâm sở nào cũng đều có hai mặt thiện và ác

Chánh văn:
依止根本識
五識隨緣現
或俱或不俱
如波濤依水

意識常現起
除生無想天
及無心二定
垂眠與悶絕

Phiên âm:
Y chỉ căn bản thức,
Ngũ thức tuỳ duyên hiện.
Hoặc câu hoặc bất câu,
Như ba đào y thủy.

Ý thức thường hiện khởi,
Trừ sanh vô tưởng thiên.
Cập vô tâm nhị định,
Thuỳ miên dữ muộn tuyệt.

Việt dịch:
Sáu thức trước nương vào đệ bát thức (năng biến 1) (cũng gọi là căn bản thức) mà sinh khởi. Năm thức trước chỉ tùy duyên mà hiện khởi. Hoặc cùng nhau mà hiện khởi (câu), hoặc không cùng nhau hiện khởi (bất câu). Hình thái y chỉ căn bản (đệ bát) thức của 5 thức trước như sóng mòi nương nước. Còn ý thức thì luôn luôn hiện khởi. Trừ các trường hợp sanh ở cõi trời Vô Tưởng, nhập hai pháp thiền định vô tâm, ngủ say và lúc chết giả.

Chánh văn:
諸識轉變
別所分別
由此彼皆無
一切唯識

Phiên âm:
Chư thức chuyển biến,
Phân biệt sở phân biệt.
Do thử bỉ giai vô,
Cố nhất thiết duy thức.

Việt dịch:
Do sự chuyển biến của các thức (tam năng biến) mà có ra năng phân biệt (kiến phần) và sở phân biệt (tướng phần). Nhưng vì năng phân biệt (thử) và sở phân biệt (bỉ) đều không có thật. Cho nên nói tất cả các pháp chỉ do thức biến.

Chánh văn:
由一切種識
如是如是變
以展轉力故
彼彼分別生

Phiên âm:
Do nhất thiết chủng thức,
Như thị như thị biến.
Dĩ triển chuyển lực cố,
Bỉ bỉ phân biệt sanh.

Việt dịch:
Do chủng tử các pháp chất chứa trong Alaya thức, chúng luôn luôn chuyển biến, và chuyển biến trùng điệp không ngừng, qua nhiều hình thái; nhờ vào sức hỗ tương qua lại giữa các chủng tử tâm, tâm sở, kiến phần tướng phần mà phát sinh các loại phân biệt (năng phân biệt và sở phân biệt).

Chánh văn:
由諸業習氣
二取習氣俱
前異熟既盡
復生艅異熟

Phiên âm:
Do chư nghiệp tập khí,
Nhị thủ tập khí câu.
Tiền dị thục ký tận,
Phục sanh dư dị thục.

Việt dịch:
Do tập khí (chủng tử) của các nghiệp và tập khí của 2 thủ (ngã chấp, ngã pháp) cùng nhau hỗ tương, nên thân dị thục (sắc thân) đời này vừa chấm dứt thì lại sanh các thân dị thục đời sau và đời sau nữa.

Chánh văn:
由彼彼遍計
遍計種種物
此遍計所執
自性無所有

依他起自性
分別緣所生
圓成實於彼
常遠離前性

故此彼依他
非異非不異
如無常等性
非不見此彼

Phiên âm:
Do bỉ bỉ biến kế,
Biến kế chủng chủng vật.
Thử biến kế sở chấp,
Tự tánh vô sở hữu.

Y tha khởi tự tánh,
Phân biệt duyên sở sanh.
Viên thành thật ư bỉ,
Thường viễn ly tiền tánh.

Cố thử dữ y tha,
Phi dị phi bất dị.
Như vô thường đẳng tánh,
Phi bất kiến thử bỉ.

Việt dịch:
Do những tâm niệm chấp trước cùng khắp, chấp trước lăng xăng, chấp trước vật này vật kia. Những tâm niệm chấp trước (chủ thể) và vật bị chấp trước ấy (đối tượng) đều không có tự tánh riêng. Đó là biến kế sở chấp.

Còn tự tánh y tha khởi, là do các duyên sai biệt hoà hợp mà sanh khởi, viên thành thật tự tánh là từ tánh y tha khởi, xa lìa tánh biến kế sở chấp mà có.

Cho nên viên thành thật tự tánh và y tha khởi tự tánh, chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Như nhóm tánh vô thường, khổ… không phải không thấy cái này (thử) mà thấy được cái kia (bỉ).

Chánh văn:
即依此三性
立彼三無性
故佛密意說
一切法無性

初即相無性
次無自然性
後由遠離前
所執我法性

此諸法勝義
亦即是真如
常如其性故
即唯識實性

Phiên âm:
Tức y thử tam tánh,
Lập bỉ tam vô tánh.
Cố Phật mật ý thuyết,
Nhất thiết pháp vô tánh.

Sơ tức tướng vô tánh,
Thứ vô tự nhiên tánh.
Hậu do viễn ly tiền,
Sở chấp ngã pháp tánh.

Thử chư pháp thắng nghĩa.
Diệc tức thị chân như.
Thường như kỳ tánh cố,
Tức duy thức thật tánh.

Việt dịch:
Đức Phật căn cứ trên ba tự tánh, lập ra ba vô tánh. Đây là mật ý của đức Phật để thuyết minh tất cả các pháp đều không có tự tánh. Đầu tiên là tướng vô tánh, kế đó là vô tự nhiên tánh và sau hết là do xa lìa tánh chấp ngã và chấp pháp (biến kế sở chấp) trước, nên gọi là thắng nghĩa vô tánh, có nghĩa cái vô tánh có một nội dung vô cùng tốt đẹp thù thắng. Đây là thắng nghĩa của các pháp, cũng tức là chân như. Vì xưa nay thường hằng như vậy. Và đây cũng chính là thật tánh của duy thức.

Chánh văn:
乃至未起識
求住唯識性
於二取隨眠
猶未能伏滅

Phiên âm:
Nãi chí vị khởi thức
Cầu trụ duy thức tánh.
Ư nhị thủ tuỷ miên,
Do vị năng phục diệc.

Việt dịch:
Khi chưa phát tâm tu duy thức, đến lúc đã phát tâm cầu an trụ trong thật tánh duy thức. Trong giai đoạn này đối với 2 chấp thủ (chấp thủ ngã, chấp thủ pháp), chỉ mới tạm thời ngủ yên, chưa hoàn toàn đoạn diệt.

Chánh văn:
現前立少物
謂是唯識性
以有所得故
非實住唯識

Phiên âm:
Hiện tiền lập thiểu vật,
Vị thị duy thức tánh.
Dĩ hữu sở đắc cố,
Phi thật trú duy thức.

Việt dịch:
Trước mặt dựng lên một vật gì đó làm biểu tượng thiền quán, gọi là duy thức tánh. Vì còn chỗ sở đắc nên chưa phải thật sự an trụ trong duy thức thực tánh.

Chánh văn:
若時於所緣
智都無所得
爾時住唯識
離二取相故

Phiên âm:
Nhược thời ư sở duyên,
Trí đô vô sở đắc.
Nhĩ thời trú duy thức,
Ly nhị thủ tướng cố.

Việt dịch:
Nếu khi nào hành giả thấy được cảnh sở duyên và trí năng duyên (cảnh sở quán và trí năng quán) đều không còn là chỗ sở đắc nữa, bấy giờ mới thật sự an trú trong duy thức thật tánh. Vì đã xa rời hai tướng chấp thủ (năng thủ sở thủ).

Chánh văn:
無得不思議
是出世間智
捨二粗重故
便證得轉依

Phiên âm:
Vô đắc bất tư nghị,
Thị xuất thế gian trí.
Xả nhị thô trọng cố,
Tiện chứng đắc chuyển y.

Việt dịch:
Trí vô sở đắc không thể nghĩ bàn. Đây là trí xuất thế gian (vô phân biệt trí). Do xa lìa 2 món thô trọng (phiền não chướng, sở tri chướng) mà chứng đắc 2 quả chuyển y (Bồ đề, Niết bàn).

Chánh văn:
此即無漏界
不思議善常
安樂解脫身
大牟尼名法

Phiên âm:
Thử tức vô lậu giới,
Bất tư nghị thiện thường.
An lạc giải thoát thân,
Đại mâu ni danh pháp.

Việt dịch:
Đây là cảnh giới vô lậu, cũng gọi là bất tư nghị, thiện, thường, an lạc, giải thoát thân đại Mâu ni (còn gọi là đại pháp thân)