Thích Tuệ Sỹ
CHƯƠNG 5
BỒ TÁT HÀNH
TIẾT 1: NHIẾP SỰ VÀ NHIẾP THỌ
I. MƯỜI HAI NAN ĐỀĐộng lực phát tâm cầu Phật thừa là do ở chổ nhận định nỗi khổ không cùng tận của tất cả thế gian chứ không phải riêng mình. Cho nên, ngay sau khi vừa phát tâm, để củng cố tâm nguyện ấy, người thực hành Bồ tát đạo luôn luôn lấy sự an lạc của chúng sinh làm đối tượng. Trong quá trình thực hành ấy, cho đến khi hành động tự tại và để thành tựu kết quả ấy, Du-già[1] nêu lên mười hai trường hợp gian nan như sau:
1. Đối với hạng hữu tình thường vi phạm các luật tắc đạo đức, Bồ tát phải hành động như thế nào cho thích hợp, bằng trừng trị hay tha thứ?
2. Đối với hạng ác hữu tình, muốn khắc phục chúng, phải phương tiện hiện hành các công hạnh tân khổ, chế ngự ý chí của mình để không sinh phiền não.
3. Khả năng cung cấp có giới hạn, nhưng nhu cầu của chúng sinh trước những thống khổ bức bách thì vô cùng, làm thế nào để thỏa mãn?
4. Mình chỉ có một thân, nhưng các hạng khốn khổ cần cứu giúp lại vô số, làm thế nào để đồng thời đem lại lợi ích cho tất cả?
5. Trong trường hợp phải sống ở giữa những nơi buông lung, những nơi xa hoa, với những dục lạc quyến rũ, làm thế nào để tự khắc phục ý chí?
6. Luôn luôn mong cầu làm lợi ích một cách phổ biến, nhưng trong trường hợp chưa đủ sức, chưa đủ khả năng, thì làm thế nào?
7. Đối với các hạng ngu si, siểm trá, phải giáo dục, hay phải bỏ đi, như thế nào?
8. Thấy rõ nỗi khổ sinh tử luôn luôn áp bức nhưng không thể từ bỏ chúng sinh.
9. Chưa chứng được thanh tịnh tăng thượng ý lạc,[2] cho nên vẫn lo sợ tâm niệm xao lãng khi mạng chung.
10. Chưa chứng được thanh tịnh tăng thượng ý lạc mà có những đến cầu xin những thứ yêu qúy nhất của mình.
11. Đối với các hạng có quan điểm dị biệt, có xu hướng dị biệt, làm thế nào để giáo dục, hay bỏ đi?
12. Thực hành sự không buông lung tối đa nhưng không cần phải gấp rút diệt tận các phiền não để một mình vào Niết-bàn.
Khắc phục được những gian nan ấy, đòi hỏi phải phát triển trí tuệ, tình cảm, ý chí. Đấy không phải là những điều muốn thành tựu tức thì thành tựu ngay. Do đó, trong qúa trình hành động, kinh luận phân chia hai giai đoạn trọng yếu của Bồ tát.[3] Giai đoạn thứ nhất, kể từ khi mới phát tâm hướng thượng mà trí tuệ, tình cảm và ý chí chưa vượt lên trên hạng phàm phu. Giai đoạn thứ hai, với tín tâm vững chắc không còn giao động trước mục tiêu hướng thượng của mình, là giai đoạn
Thánh giả Bồ tát mà tất cả khả năng đã vượt hẳn thế gian.
Trước khi là một Thánh giả, đối tượng chính yếu phải phát triển là đạo đức và trí tuệ, trong khi đó vẫn không bỏ sót sự tài bồi tâm nguyện vị tha. Để phát triển đạo đức và trí tuệ, vị ấy phải thực hành các pháp môn của Thanh văn, tất nhiên có thể lựa chọn những pháp môn nào thích hợp và cũng có thể thực hành tất cả vì như vậy mới đủ khả năng làm mô phạm giáo hóa kẻ khác. Nghĩa là, phải tu tập quán sát để thấy rõ chân tướng của thế gian. Và để tài bồi tâm nguyện vị tha, căn bản hành động trong phương diện này là bốn nhiếp sự.
II. NHIẾP SỰ – NHIẾP THỌ – BA-LA-MẬT
Bốn nhiếp sự:[4] bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự, không phải là mô thức hành động riêng biệt của Bồ tát đạo, mà chung cho cả nhân thiên thừa. Đó là bốn nguyên tắc của đời sống tập thể, là những mô thức ràng buộc và đoàn kết tất cả mọi người trong đời sống cộng đồng bằng tình cảm vị tha cao cả.[5] Như kinhThiện sinh[6] nói: «Chính những nhiếp sự này, khiến thế giới xoay quanh, như bánh xe quay lăn, vòng theo thục xe chính». Và kinh cũng nói rằng, nếu không có bốn nhiếp sự này thì cả đến sự hiếu kính của con cái đối với cha mẹ cũng không có, hay cũng thành vô nghĩa.
Chính trong ý nghĩa đó mà bốn nhiếp sự được đề cao trong Bồ tát đạo. Song song với bốn nhiếp sự là sáu ba-la-mật. Nhưng chính bốn nhiếp sự này dẫn công trình thực hành sáu ba-la-mật đi đến mức thành tựu toàn vẹn, vừa tự phát triển khả năng của bản thân, và vừa hướng khả năng ấy đến với mọi cộng đồng khác của thế gian.
Sáu ba-la-mật được thực hành giới hạn tùy theo trình độ phát triển tâm linh. Cho đến khi bước vào địa vị Thánh giả Bồ tát, mà địa vị đầu tiên được gọi là Hoan hỉ địa,[7] bấy giờ từng giai đoạn một từng ba-la-mật được thành tựu trên mức tuyệt đối.[8] Sau khi thành tựu đến ba-la-mật thứ sáu,[9] trí tuệ ba-la-mật, tính rõ chân tính và thực tướng của vạn hữu, bấy giờ là giai đoạn phát triển các khả năng xảo diệu, thành tựu phương tiện ba-la-mật, đạt địa vị thứ bảy gọi là Viễn hành địa.[10] Bên trên địa vị này, từ địa vị thứ tám trở lên,[11] Bồ tát mới đủ tài năng và trí tuệ để vượt qua những gian nan như đã dẫn Du già ở trên. Cũng chính từ địa vị này trở đi, Bồ tát phát triển năng lực nhiếp thọ[12] chúng sinh. Nhiếp thọ trong ý nghĩa này tức là đóng vai trò thuyền trưởng đưa người vượt qua sóng gió, làm tư cách một nhà hướng đạo đưa đoàn lữ hành vượt qua sa mạc.
Nói cách khác, nhiếp thọ[13] có thể được hiểu như là duy trì, bảo vệ hay quan phòng. Trước hết, nhiếp thọ trong trình độ mới phát tâm hướng thượng, được gọi là đốn phổ nhiếp thọ, tức sự nhiếp thọ trực tiếp và phổ biến, là thâu nhiếp trọn tất cả thế giới hữu tình vào trong vòng quyến thuộc của mình, với ý niệm rằng: «Tôi sẽ làm mọi lợi ích cho tất cả». Thứ đến, là tăng thượng nhiếp thọ, tức là, tùy theo môi trường sinh hoạt, tùy theo địa vị xã hội của mình mà phụng sự, giáo dục, cho đến nhẫn mọi cái xấu xa của mọi người, khích lệ phát triển khía cạnh tốt. Đó là nhiếp thọ để tăng thượng, nghĩa là để hổ trợ sự phát triển đạo đức của mọi người. Thứ ba, nhiếp thủ nhiếp thọ, tức nhiếp thọ bằng sự che chở, trong trường hợp làm bậc thầy của mọi người, có trách nhiệm giáo dục đối với một học chúng lớn. Thứ tư, trường thời nhiếp thọ, với những người cần phải gần gũi lâu dài để giáo hóa. Thứ năm, đoản thời nhiếp thọ, với những hạng trung bình, không đòi hỏi phải giáo hoá bằng thời gian lâu dài. Và sau chót, tối hậu nhiếp thọ, theo đuổi để giáo dục cho đến khi nào thành tựu tuyệt đối, không giới hạn thời gian đời này mà cả đến về đời sau.
TIẾT 2: BẤT TƯ NGHỊ NHIẾP THỌ
Đặc sắc của kinh Thắng Man ở đây là sự nhiếp thọ Chính pháp, mà chúng ta thấy có mặt trong bất tư nghị nhiếp thọ này. Nói là bất tư nghị, vì nó vượt ngoài sự diễn tả thông thường. Bởi vì đây là hành vi của Thánh giả Bồ tát.
Như đã từng định nghĩa, nhiếp thọ Chính pháp được hiểu trên hai phương diện. Về tự hành, đó là sự học hỏi Chính pháp không hề xao lãng. Về hóa tha, đó là sự hộ trì Chính pháp khiến cho được tồn tại. Như vậy, nội dung ý nghĩa của nhiếp thọ Chính pháp khá đơn giản, nhưng mức độ vi tế và quan trọng của nó tùy theo mức độ phát triển tâm linh trong quá trình thực hành Bồ tát đạo. Nội dung đó chỉ có một ý nghĩa duy nhất, là hộ trì hay bảo vệ Chính pháp. Nhưng sự bảo vệ được đặt trên một cơ sở có hai lớp: học và hành.[14] Quá trình diễn tiến của nhiếp thọ Chính pháp khởi sự từ giới hạn của một phàm phu bình thường. Ở khởi điểm trên con đường hướng thượng này, ý chí bảo vệChính pháp đi liền với ý chí học hỏi Chính pháp. Muốn thành tựu sự học tất nhiên không thể không gần gũi thiện tri thức. Cho nên, trong trình độ này, trách nhiệm trọng yếu là thân cận, cung kính, tôn trọng, phụng sự các thiện tri thức để học tập không hề biết mệt mỏi, ghi nhận không hề xao lãng những điều đã học, luôn luôn phát triển khả năng quan sát sự tướng thế gian.
Khi sở học đã đạt đến một căn bản vững vàng, khả năng quan sát sự tướng thế gian đã tinh luyện, xảo diệu, bấy giờ dẫn đến thực hành. Mục tiêu thực hành ở đây là tự mình chứng nghiệm những điều đã học, mô phạm thực hành là bốn nhiếp sự và sáu ba-la-mật. Đây là giai đoạn của thánh giả Bồ tát từ địa vị thứ nhất cho đến địa vị thứ bảy.
Như vậy,Chính pháp được bảo vệ bằng ý chí học tập không mệt mỏi, và bằng ý chí hành động không khiếp nhược. Từ đây trở đi, không những chỉ đủ khả năng bảo tồn Chính pháp làm ngọn hải đăng trong đêm trường sinh tử, mà còn có khả năng thiếp lập Chính pháp, làm tỏa rộng ánh sáng của hải đăng đến biên giới vô tận. Tức là vấn đề chủ yếu của chương này.
TIẾT 3: PHÂN TÍCH NỘI DUNG
I. Ý NGHĨA TRỌNG ĐẠI CỦA NHIẾP THỌ
Kể từ chương này trở đi, Thắng Man Phu nhân sẽ lần lượt trình bày những điểm cốt yếu làm cơ sở cho tư tưởng Nhất thừa của kinh này. Chương này có nhiệm vụ nối kết giữa căn bản hành động được trình bày ở các chương trước và căn bản tư tưỏng sẽ được trình bày trong các chương sau.
Toàn chương gồm ba phần chính. Phần thứ nhất, nêu lên bốn thí dụ để mô tả ý nghĩa trọng đại của sự nhiếp thọ Chính pháp. Phần thích hai, giải thích ý nghĩa trọng đại đó. Phần cuối cùng, sự ấn chứng của Phật.
Ý nghĩa trọng đại của sự nhiếp thọ Chính pháp được Phu nhân nói rằng: «Hằng sa các nguyện mà Bồ tát có, thảy đều thâu nhập vào trong một đại nguyện. Đó là nhiếp thọ Chính pháp. Nhiếp thọ Chính pháp là chân nguyện đại nguyện». Tính cách trọng đại ấy như thế nào? Phu nhân nêu bốn thí dụ để giải thích.
Thí dụ 1: Mây lớn. Ở đây, mây và mưa trong thời kỳ thế giới sáng thành được nói đến.
Đức Phật không hề đưa ra một Thượng đế có khả năng sáng tạo và hủy diệt thế gian. Ngài nói, thế gian được thành tựu hay hủy diệt do bởi hành vi của chính các loại hữu tình sống trong đó, bị thúc đẩy bởi tâm thức của chúng. Thế giới bị hủy diệt vì ngọn lửa thù hận chúng sinh. Tai biến thứ nhất là hỏa tai. Thứ đến, sau khi qua thời kỳ hỏa tai, một tai nạn lớn xảy ra: nước lụt. Chính dục vọng con người dẫn đến thảm họa đó. Sau hết, cơn lốc vũ trụ thổi bay tất cả tro tàn của thế giới đã bị đốt cháy bằng lửa và đã bị cuốn trôi bởi nước. Đám vi trần trở thành những đám bụi vũ trụ hỗn mang trong cơn lốc vũ trụ. Sự cuồng dại ngu ngốc của các loại hữu tình đã gây ra cơn lốc vũ trụ ấy. Rồi qua một thời gian, cũng từ cơn lốc vũ trụ mà bản chất là sự cuồng dại tối tăm của các loại chúng sinh ấy tập hợp các đám vi trần vơ vẩn trong không gian thành những đám mây lớn. Truyền thuyết gọi đó là những đám mây sáng thế. Từ đám mây này đổ xuống những cơn mưa lớn, gọi là mưa vũ trụ. Những bọt nước mưa từ cơn mưa vũ trụ này dần dần kết chặt lại thành khối đất lớn. Nghĩa là, tình yêu và dục vọng lại một lần nữa hình thành thế giới, trong đó sẽ tái diễn nhữnng tấn kịch thảm khốc do bởi tham dục, thù hận và cuồng dại si ngốc.
Những đám mây vũ trụ được dùng làm thí dụ cho tính chất to lớn của sự nhiếp thọ Chính pháp. Bởi vì, cũng như thế gian được khởi thủy tạo thành bởi những đám mây ấy, cũng vậy, Thắng Man Phu nhân nói: «Sự nhiếp thọ Chính pháp mưa xuống vô lượng phước báo và là những cơn mưa vô lượng thiện căn». Hạnh phúc của thế gian xuất phát từ khả năng nhiếp thọ Chính pháp, và công bằng, bình đẳng và kiêm ái, tất cả đều được phát triển và tái bồi bởi sự nhiếp thọ Chính pháp.
Thí dụ 2: Nước lớn. Trong truyền thuyết sáng tạo thế gian, về phương diện ý nghĩa tượng trưng, nước được thí dụ cho tình yêu, yếu tố kết hợp. Trong truyền thuyết ấy, sau cơn mưa vũ trụ, nước dâng tràn dần dần đông thành chất rắn, thành khối đất lớn, tức nảy sinh «ba ngàn đại thiên thế giới tạng và bốn trăm ức lục địa». Đó là thành ngữ chỉ cho một hệ thống tinh vân vũ trụ. Cũng vậy, từ sự nhiếp thọ Chính pháp mà nảy sinh các thừa. Kinh nói: «Xuất sinh vô lượng thế giới tạng của Đại thừa». Tức từ nhiếp thọ Chính pháp mà nảy sinh giáo pháp Đại thừa, đủ các địa vị Bồ tát. Nói cách khác, Thánh giả Bồ tát với vô số địa vị khác nhau đều lấy sự nhiếp thọ Chính pháp làm nguyên sinh chất để thành tựu. Nói rằng: «Oai lực thần thông của hết thảy Bồ tát» tức chỉ cho khả năng hóa tha vô tận của Bồ tát cũng lấy sự nhiếp thọ Chính pháp làm yếu tố sơ thủy. Cả hai câu trên đều chỉ Đại thừa Bồ tát trên trình độ xuất thế gian tức các Thánh giả Bồ tát. Kinh văn lại nói: «Sự an ổn khoái lạc của hết thảy chúng sinh» là nói đến nhân thừa, hạnh phúc đạt được trong giới hạn vật dục tương đối. Lại nói: «Sự như ý tự tại của hết thảy chúng sinh» là nói đến thiên thừa, hạnh phúc vượt trên giới hạn vật dục tương đối. Kinh văn lại nói đến: «Sự an lạc xuất thế gian» là nói đến Thanh văn và Duyên giác thừa. Và cuối cùng, «sự sáng thành thế giới cho những gì mà chư thiên và nhân loại vốn chưa từng có» tức chỉ sự nhiếp thọ Chính pháp không chỉ giới hạn trong ý nghĩa hộ trìChính pháp đơn phương mà còn bao hàm cả ý nghĩa hộ trì tất cả sự thành tựu thế gian.
Thí dụ 3: Đất lớn. Chỉ trách nhiệm trọng đại của sự nhiếp thọ Chính pháp. Trách nhiệm này có bốn. Trước hết, trách nhiệm thiết lập Nhân và Thiên thừa, làm nơi trú ngụ an ổn cho các hạng chúng sinh không biết đến thiện tri thức, không biết đến đạo lý giải thoát, không có ý chí hướng thượng. Thứ đến, trách nhiệm thiết lập ba thừa xuất thế gian, gồm Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát thừa, làm mô thức phát triển tâm linh cho những hạng có ý chí hướng thượng. Gánh vác trách nhiệm trọng đại ấy, tự mình là người bạn tốt của tất cả và là người mẹ hiền của tất cả. Với sự hỗ trợ không điều kiện, không cần mời thỉnh, không một mục đích tự lợi nào, mà hoàn toàn bằng tâm nguyện vị tha, đó là tư cách của người bạn không cần mời thỉnh. Với tấm lòng từ ái bao dung, nuôi lớn thiện tâm cho tất cả, đó là tư cách của người mẹ hiền trong Chính pháp. Là Pháp mẫu.
Thí dụ 4: Kho bảo vật. Tức các hầm mỏ chứa đựng các thứ châu ngọc, gồm mọi tài nguyên vô tận của thiên nhiên, có khả năng cung cấp đời sống hạnh phúc cho mọi chúng sinh trên mặt đất. Các loại như ý bảo châu là những bảo tạng vô giá. Các loại châu báu thuộc hải sản như ngọc trai vân vân là thượng giá. Và các loại đồng, thiếc, v.v.., thuộc hạ giá. Bốn loại châu báu này chỉ cho bốn thừa: Nhân thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa. Lòng đất là kho tàng vô tận của các tài nguyên châu bảo, cũng vậy, sự nhiếp thọ Chính pháp là kho tàng vô tận cung cấp tất cả chúng sinh chất liệu và phương tiện sống một cách sung mãn, giàu có với trí tuệ vô biên; sang cả với những phẩm tính đạo đức tuyệt vời.
II. THỰC HÀNH NHIẾP THỌ
Trong ý nghĩa thực tiễn,Chính pháp không phải là sự thực hay chân lý riêng biệt cho một cá thể nào trong chừng mực trình độ nào. Đó vừa là bản chất, bao gồm cả chất liệu nuôi dưỡng đời sống, và vừa là mục đích hay giá trị hay ý nghĩa của đời sống. Nói cách khác,Chính pháp tức là chân lý, và những giá trị phổ quát của sự sống; đồng thời cũng là vô vàn hiện thực riêng biệt của từng cá thể sống.
Dù có tất cả những sai biệt tùy theo căn tính sai biệt ấy, nhưng thực tướng của thế giới vẫn không vì vậy mà thuần một mực là thường hay vô thường, thuần biến động hay không biến động. Thực tướng đó là Chính pháp, là những gì được chứng ngộ và thành tựu nơi trí tuệ của Phật.
Bồ tát hộ trì Chính pháp, trong bước đầu là học hỏi và tu tập để nhìn thấy thấu suốt cái thực tướng ấy. Sau khi thành tựu sự nghiệp học hỏi này, không còn bị trở ngại bởi những sự tướng thế gian, Bồ tát hộ trì Chính pháp bằng những sự tướng thế gian; Bồ tát hộ trì Chính pháp bằng sự nhiếp thọ chúng sinh, tùy cơ duyên tự tại mà thi hành sáu ba-la-mật. Do đó, Chính pháp mà Thắng Man Phu nhân nói đến ở đây bao gồm cả hai mặt: Hành trì và thực chứng, lý luận và thực tiễn. Do ý nghĩa này,Chính pháp và nhiếp thọ Chính pháp là hai mặt của một thực tại duy nhất. Chính pháp là bản chất mà nhiếp thọ Chính pháp là công năng. Hành động thích ứng với bản chất, và bản chất được bộc lộ, được thực chứng với hành động. Đó là ý nghĩa trong câu nói của Thắng Man Phu nhân: «Không khác biệt Chính pháp, không khác biệt nhiếp thọ Chính pháp, Chính pháp tức là nhiếp thọ Chính pháp.»
1. TỰ THỂ CỦA NHIẾP THỌ
Chánh pháp mà được định nghĩa rằng: «Chánh pháp tức là nhiếp thọ Chính pháp», đó là nhấn mạnh tính cách thực tiễn củaChính pháp, và tính chất chân thật của sự nhiếp thọ Chính pháp. Chính pháp tức nhiếp thọ Chính pháp, nhiếp thọ Chính pháp tức ba-la-mật: chuỗi quan hệ này xác định một cách rõ rệt con đường của Bồ tát. Nếu lần đi từ bộ phận thực tiễn, thì sự thành tựu các ba-la-mật chính là thành tựu sự nhiếp thọ Chính pháp. Và thành tựu sự nhiếp thọ Chính pháp là chứng đạt được bản thân củaChính pháp. Phu nhân nói: «Bạch Thề Tôn, ba-la-mật không khác biệt nhiếp thọ Chính pháp. Nhiếp thọ Chính pháp tức là ba-la-mật». Sự xác định này có ý nghĩa rằng: Sự giác ngộ của Bồ tát không mang tính chất cá biệt, mà là sự giác ngộ toàn diện, đại đồng, tức sự giải thoát và giác ngộ luôn luôn nằm trong quan hệ mật thiết giữa ta và tất cả thế gian.
Sáu ba-la-mật được nói trong chương này, trong phần định nghĩa về nhiếp thọ Chính pháp này, là khả năng hành động tự tại của Thánh giả Bồ tát từ địa vị thứ bảy trở lên,[15] Viễn hành địa, vì đã tu tập viên mãn sáu ba-la-mật qua nhiều môi trường, qua nhiều thời gian. Bấy giờ, sự thực hành sáu ba-la-mật là tùy theo cơ duyên, tùy theo tâm niệm của mỗi loại chúnh sinh riêng biệt. Ba-la-mật như là phương tiện thiện xảo để Bồ tát hướng dẫn những hạng có căn duyên thích hợp bước lên Bồ tát đạo.[16]
2. NHÂN CÁCH NHIẾP THỌ
Mục trên nói về bản thân của nhiếp thọ. Mục này, Thắng Man Phu nhân lại thỉnh cầu Phật hứa khả cho nói thêm về nghĩa lớn của nhiếp thọ Chính pháp, là nói về nhân cách nhiếp thọ. Ở đây gồm có hai tiểu mục:
A. Tự lợi. — Nhân cách nhiếp thọ được nói là «thiện nam, thiện nữ nhiếp thọ Chính pháp». Nghĩa của câu này là: thiện nam hay thiện nữ nào đã thành tựu được sự nhiếp thọ Chính pháp. Sự thành tựu ấy đưa đến kết quả gì? Trước hết, đối với bản thân của người nhiếp thọ ấy. Bởi vì để bảo vệ hay hộ trì sự tồn tại của Chính pháp cho nên người nhiếp thọ Chính pháp không thể không hy sinh thân thể, sinh mạng và tài sản. Trong sự hy sinh này, người nhiếp thọ Chính pháp đã thấy rõ bản chất mong manh hư ảo của thân ngũ uẩn giả hợp này, của sinh mạng vô thường này, và của những tài sản phù vân này. Sở học và sở hành trong ý nghĩa hy sinh vìChính pháp ấy đưa đến chỗ chứng ngộ một cách sâu xa, thâm thiết, bản chất đích thực của tất cả những gì có mặt trên thế gian. Sự hiến dâng vĩ đại này không có giới hạn thời gian. Hư không giới không cùng tận, chúng sinh giới không cùng tận, cho đến Phật pháp cũng không cùng tận, vì thế sự hy sinh thân, mạng và tài sản cũng không bao giờ cùng tận. Trong hy sinh vô tận, Bồ tát chứng thực ý nghĩa vô tận. Đó là sự thực chứng bằng kinh nghiệm học và hành về pháp tính thường hằng qua những gì vô thường tạm bợ. Ở đây, người nhiếp thọ Chính pháp hy sinh ba phần thuộc bản chất vô thường của chúng sinh mà thành tựu được ba phần của Pháp thân thường trú.
B. Lợi tha. — Sự nhiếp thọ Chính pháp của Thắng Man Phu nhân là sự hộ trì Chính pháp trong thời đại mà Chính pháp được công bố của đức Thích Tôn gần đi đến chỗ biến mất. Thực trạng của sự biến mất đó được mô tả rõ: lúc bấy giờ các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nghĩa là tất cả bốn chúng đệ tử của Phật, không tha thiết gì đến những sự kiện học hỏi và hành trì Phật pháp, mà chỉ bận tâm đến những tranh chấp, phe nhóm, bè đảng. Chính trong bối cảnh ấy, trách nhiệm nhiếp thọ Chính pháp phải là sự nêu cao đức tính không gian xảo. Đức tính này được đề cao ở đây quả thực có một ý nghĩa quan trọng mà chúng ta không thể lơ đãng để lướt qua. Đó là sự tiên đoán gián tiếp rằng Phật pháp sẽ không được tôn sùng trong thời đại mà tính gian xảo như là bản chất chủ động của con người được bộc lộ phổ biến, cho đến đệ tử Phật cũng không ngoài công ước chung của thời đại. Lấy tính gian xảo làm bản chất chủ động để điều hành những mâu thuẫn xã hội, thì thực trạng của thời đại đương nhiên là đấu tranh thù nghịch, chia rẽ phe nhóm. Giữa những làn sóng đục thô bạo đó, trách nhiệm hộ trìChính pháp là phải củng cố cộng đồng Chính pháp, lấy trực tâm, lấy đức tính không gian xảo, đức tính nhiệt thành với Chính pháp làm nền tảng. Thắng Man Phu nhân nói: «Những ai tham dự trong những cộng đồng Chính pháp sẽ được các đức Phật thọ ký.» Cộng đồngChính pháp với cơ sở đạo đức vững chắc là thành trì bảo vệ Chính pháp trước những cơn lốc và ma qủy của thời đại.
III. PHẬT ẤN CHỨNG
Trong mỗi phân đoạn và mỗi tiết mục trên đây, trước khi trình bày một khía cạnh của nhiếp thọ Chính pháp, Thắng Man Phu nhân đều có thỉnh cầu hứa khả. Bởi vì những điều Phu nhân trình bày không phải chỉ là những phát biểu quan niệm riêng tư căn cứ trên sự hiểu biết cá biệt của mình, mà đấy còn là những điểm then chốt, những điểm trọng yếu trong giáo pháp của đức Thích Tôn. Cho nên cần được hứa khả và ấn chứng, để chúng trở thành những điểm giáo pháp mà ai đã phát tâm dũng mãnh hướng thượng có thể lấy đó làm tiêu chí cho sở học và sở hành của mình, không chỉ giới hạn trong thời đức Thích Tôn còn tại thế mà còn trong tất cả mọi thời đại về sau.
Trong phần ấn chứng của Phật, có ba thí dụ được nêu lên để mô tả những tính chất ưu thắng của nhiếp thọ Chính pháp.
Thí dụ thứ nhất, về nhược điểm, hay tử huyệt của lực sĩ. Một lực sĩ dù có sức mạnh vô địch thế nào đi nữa, vẫn tồn tại trong cơ thể một điểm yếu gọi là tử huyệt. Cũng vậy, quyền lực ma quỷ và thế gian dù hung bạo và dù có to lớn đến mức nào, vẫn chứa đựng trong bản thân nó một yếu tố tự hủy diệt. Nhiếp thọ Chính pháp như là cơ sở tất yếu để chiến thắng ma quỷ, những quyền lực cuồng bạo của thế gian ngự trị thế gian bằng sự gian xảo, đẩy lui sự thật của đời sống con người vào bóng tối.
Thí dụ thứ hai, về trâu chúa. Nhiếp thọ Chính pháp là điểm tập họp tất cả mọi hành vi thiện, và là khả năng hướng dẫn mọi hành hướng thiện; là khả năng hướng thượng vượt lên trên tầm mức hướng thượng có giới hạn của Tiểu thừa.
Thí dụ thứ ba, về núi Tu-di. Uy nghiêm và bất động trước mọi thứ giông bão, nhiếp thọ Chính pháp là điểm tựa vững chắc cho Bồ tát hành đạo, là nôi xuất phát tinh thần hy sinh vô úy.
Ở đây cũng nên nói thêm một đôi điều về nét đặc sắc của ý nghĩa nhiếp thọ Chính pháp mà Thắng Man Phu nhân trình bày và Phật ấn chứng.
Nhiếp thọ Chính pháp, nghĩa thấy, cũng có nghĩa là hộ trì Chính pháp. Và đây mới chính là tinh nghĩa của ý niệm này. Tinh nghĩa đó không chỉ đơn thuần về mặt học thuyết, mà còn chứa đựng những khía cạnh xã hội của nó. Tức là, cho đến một giai đọan lịch sử nhất định, vấn đề học Phật và tu Phật không chỉ có nghĩa đơn thuần là tu và học, với Tam tạng kinh điển, với các pháp môn tham thiền, quán tưởng, trong các tự viện, tại các tòng lâm. Tất nhiên, nội dung của tu và học vẫn là giới-định-tuệ; và Phật tử vẫn hành đạo bằng các nhiếp sự, các ba-la-mật. Nhưng tất cả sinh hoạt ấy đều quy tụ vào một điểm: hộ trì hay bảo vệ Chính pháp.
-------------------------
[1] Đại 30, tr. 564b16.
[2] Nhiếp luận thích (Huyền), Đại 31, tr. 354c28: «Thanh tịnh tăng thượng ý lạc có những đặc tính gì? … Sự mong cầu và tin hiểu đều thanh tịnh, nói là thanh tịnh ý lạc.» Skt. śuddhādhyāśaya, Du-già, tr. 565a 2: Bồ tát từ sơ phát tâm cho đến thành Phật, trải qua 7 địa vị khác nhau: 1. Chủng tính địa (Skt.gotra-bhūmi), 2. Thắng giải hành địa (Skt. adhimukti-caryā-bhūmi), 3. Tịnh thắng ý lạc địa (Skt. śuddhādhyāśaya), 4. Hành chính hành địa (Skt. caryāpratipatti-bhūmi), 5. Quyết định địa (Skt. niyatā-bhūmi), 6. Đáo cứu cánh địa (Skt.niṣṭhagamana-bhūmi), 7. Tạp địa (Skt. vyāmiśrà-bhūmi). Tiếng Phạn, adhyāśaya (tăng thượng ý lạc, hay thắng ý lạc) thường xuyên gặp trong các luận của Đại thừa, chỉ tâm nguyện và ý chí của Bồ tát. Có nơi dịch là thâm tâm, chánh trực tâm, hay cao chí. Xem thêm, Du-già, tr. 551c8 ff.
[3] Giai đoạn «địa tiền» (Skt. pṛthgjanabhūmi: phàm phu địa hay dị sinh địa) trước khi chứng nhập mười địa (daśabhūmikā) khi đó còn gọi là Bồ tát phàm phu; và «địa thượng» (Skt. Āryabhūmi: Thánh địa) từ đây trở đi được gọi là Bồ tát Thánh giả.
[4] Sūtrālaṅ, tr. 113.8 dānaṃ samaṃ priyākhyānam arthacaryā samārthatā/ tad deśanā samādāya svānuvṛttibhir iṣyate, «bố thí cùng với ái ngữ, lợi hành, đồng sự; sau khi thọ lãnh giáo pháp ấy, tích cực tự mình thục hành.»
[5] Sūtrālaṅ, 114.10: parṣatkarṣaṇaprayuktairvidhireṣasamāśritaḥ sarvārthasiddhau sarveṣāṃ sukhopāyaś ca śasyate, Bồ tát muốn duy trì đoàn thể, cần dựa vào bốn nhiếp sự, vì đó là phương tiện tốt đẹp được ca ngợi trong tất cả sự thành tựu mục đích.
[6] Cf. Trường «16. Thiện sanh kinh», Đại 1, tr. 72. Cf. Phật thuyết Thi-ca-la-việt lục phương lễ bái kinh, An Thế Cao dịch, Đại 1, tr. 250. Phật thuyết Thiện sinh tử kinh, Chi Pháp Độ dịch, Đại 1, tr. 252. Pāli: Singālovāda, D. iii. tr. 192:dānañ ca peyyevajjañ ca, atthacariyā ca yā idha, samānattatā ca dhammesu, tattha tattha yathā 'rahaṃ, ete kho saṅgahā loke rathass'āṇīva yāyato. Tham khảo thêm, Du-già, Đại 30, tr. 529c.ff; Trang nghiêm kinh, Đại 31, tr. 633c.ff;Sūtrālaṅ, tr. 113ff.
[7] Daśā, tr. 823: pṛthagjanabhūmimavakrānto bhavati (…) tathāgatakule'navadyo bhavati (…) lokottarāṃ gatiṃ sthito bhavati (…); evaṃrūpadharmavyavasthito bhavanto jinaputrā bodhisattvaḥ prāmuditāyāṃ bodhisattvabhūmau vyavasthito bhavaty acalanayogena: «Siêu việt địa vị phàm phu, …, sinh vào trong gia tộc Như Lai, …, trụ vững trên hướng đi siêu xuất thế gian; khi an trụ trong các pháp như vậy, Bồ tát chứng nhập Bồ tát địa gọi là Hoan hỷ địa, vì là không còn bị dao động nữa.»
[8] Nhiếp luận thích (Huyền), tr. 425b11: «Trong tất cả các địa không phải không tu tất cả ba-la-mật, (…) nhưng ở đây nói về ý nghĩa đặc thắng của sự tu tập.»
[9] Sūtrālaṅ, tr. 174.20: sā hi prajñāpāramitāśrayeṇa nirvāṇasaṃsārayor apratiṣṭhānāt saṃsāranirvāṇayor abhimukhī: «Bồ tát ở địa thứ sáu, do y trên bát-nhã ba-la-mật, có thể không trụ sinh tử cũng không trụ Niết-bàn, do đó hướng đến cả hai (nên gọi là hiện tiền).» Cf. Trang nghiêm kinh, tr. 659b3.
[10] Sūtrālaṅ, tr. 174.21: ekāyanapathaśleṣād bhūmir dūraṅgamà matā: do đã tiếp cận nhất thừa đạo, nên địa vị này được nói là viễn hành. Cf. Trang nghiêm kinh, tr. 659b6.
[11] Sūtrālankā, tr. 17423 dvayasaṃjñāvicalanādacalā ca nirucyate: «do không còn bị do động bởi các ấn tượng (hữu tướng hay vô tướng) nên được gọi là Bất động (acalā).» Cf. Trang nghiêm kinh, tr. 659b9.
[12] Du-già 48 (Đại 30, tr. 563b.29): Bồ tát đối với chúng sanh có sáu trường hợp thi hành ân huệ chiếu cố chính đáng làm lợi ích cho chúng sinh, gọi là «hữu tình vô đảo nhiếp thọ» (Skt. samyak-sattva-parigraha), Bồ tát địa trì kinh, quyển 10, (Đại 30, tr. 953b), gọi là «đẳng nhiếp thọ.» Sáu nhiếp thọ kể theo Du-già: 1. Đốn phổ nhiếp thọ (Skt. sakṛt-sarvasattva-parigraha), 2. Tăng thượng nhiếp thọ (Skt. adhipatya-parigraha), 3. Nhiếp thủ nhiếp thọ (Skt. upādāna-parigraha), 4. Trường thời nhiếp thọ (Skt. dīrgha-kālika-parigraha), 5. Đoản thời nhiếp thọ (Skt. adīrgha-kālika-parigraha), 6.Tối hậu nhiếp thọ (Skt. varama-parigraha).
[13] Từ Skt. parigraha, do gốc động từ pari+GRAH, nghĩa đen là nắmbắt (haynắmgiữ) hoàntoàn (hay toàn diện). Hán cũng có khi dịch là «hộ niệm.» Xem,Saddh., tr. 1185: saddharmapuṇḍarīkaṃ nāma dharmaparyāyaṃ sūtrāntaṃ (…) sarvabuddhaparigrahaṃ (…), bản dịch Hán tương đương đoạn này, «Đại thừa kinh danh Diệu Pháp liên hoa, giáo Bồ tát pháp, Phật sở hộ niệm.» (Pháp hoa, Đại 9, tr. 25a 28). Trong dẫn chứng của Śikṣ (tr. 27.2), từ Skt. của Nhiếp thọ Chính pháp là saddharma-parigraha. Hán dịch, Tậphọc, đoạn tương đương, Đại 32, tr. 82b.ff, dịch là «hộ trì Chính pháp.»
[14] Śikṣatr, 26.20: ye te dharmabhāṇakā eṣām evaṃrūpāṇāṃ sūtrāntānāṃ deśayitāraḥ pratipattisārāś ca, teṣām api dharmabhāṇakānāṃ yat sevanaṃ (…) parigrahaścīvarapiṇḍapātra-śayanāsanaglāna pratyayabhaiṣajyapariṣkāradānaṃ (…), ayam api saddharmaparigrahaḥ. (…) tasya yā nivāraṇā parirakṣā ekāgrībhāvo damaḥ śama upaśamo vinayaḥ, ayam uccyate saddharmaparigrahaḥ. «Những pháp sư diễn giảng các kinh điển như thế và kiên cố thực hành; với những vị ấy, ai thân cận, (…) hộ trì, cung cấp các thứ nhu dụng…., người ấy như vậy là hộ trì Chính pháp. Những ai loại trừ các chướng ngại, tâm chuyên nhất, thuần hóa, an tĩnh, tịch tĩnh, tự điều phục, người ấy cũng được nói là hộ trì Chính pháp.»
[15]Bảo khốt, tr. 27b19: «Về địa vị của Nhiếp thọ, ở Giang nam có ba thuyết. 1. Bân Pháp sư: khởi từ phàm phu ngoài Phật pháp, tu hành bao quát cả vạn hạnh, giáo hóa chúng sanh, làm xuất sinh thiện căn của năm thừa. Đó là nhiềp thọ Chính pháp; 2. Tông Pháp sư: khi bước vào Bồ tát địa, mới thật sự thành tựu vạn hạnh, thâu nhiếp và xuất sinh năm thừa…; 3. Đàm Đạt sư: từ Bát địa trở lên, chỉ trong một tâm mà đủ cả vạn hạnh, giáo hóa chúng sanh…»
[16]Daśa, tr. 40.7: evameva…asyāṃ saptamyāṃ bodhisattvabhūmau pratiṣṭhito bodhisattvaḥ sarvajñajñānamahāsāgarāvatīrịaḥ pāramitāmahāyānapātrābhir ūḍho bhūtakoṭivihāreṇa ca viharati, na ca nirodhaṃ sākṣātkaroti, «cũng vậy, Bồ tát đã đứng vững trong địa thứ bảy này, bằng con thuyền lớn ba-la-mật mà vào đại dương Nhất thiết trí trí, phận định rõ giới hạn thực tế, nhưng không chứng nhập tịch diệt.» Cf. Hoanghiêm (Phật), tr. 562b18.