Tóm Tắt Vi Diệu Pháp - Phần 1

Thứ Ba, 20 Tháng Chín 20162:52 CH(Xem: 9150)
Tóm Tắt Vi Diệu Pháp - Phần 1
Tóm Tắt Vi Diệu Pháp - Phần 1
Bhikkhu Bodhi Pali Text originally
edited and translated by: Mahathera Narada

Việt Dịch: Lê Văn Phúc


Lời giới thiệu Của U Rewata Dhamma and Bhikkhu Bodhi


Trọng tâm cuả quyển sách là loại sách tóm lược có vào thơì trung cổ về triết lý Phật giáo có tên là Vi Diệu Pháp Toát Yếu (Abhidhammattha Sangaha). Tác phẩm này được coi là do Acariya Anuruddha, một người am hiểu Phật giáo viết, người mà thanh thế ít được biết đến ngay cả tại đất nước cuả chính mình và thế kỷ mà ông sống cũng vẫn còn là một nghi vấn. Tuy nhiên, bất chấp nhân thân còn mơ hồ cuả tác giả, quyển sổ tay nhỏ bé cuả ông đã trở thành quyển sách giáo khoa quan trọng và có tầm ảnh hưởng nhất cuả Phật giáo Therevada. Trong chín chương ngắn chiếm khoảng 50 trang in, tác giả cung cấp tóm lược quán xuyến cả một bộ phận phức tạp cuả học thuyết Phật giáo . Tài năng cuả ông là tóm lấy được cốt tuỷ cuả hế thống ấy, và sắp xếp chúng theo một định dạng dễ hiểu cho đến nổi tác phẩm cuả ông đã trở thành quyển sổ tay chuẩn mực cho việc nghiên cưú luận tạng trong toàn bộ các quốc gia Phật giáo Therevada ở Nam và Đông Nam Á. Trong những quốc gian này, đặc biệt là Miến Điện (Myanmar) nơi mà luận tạng được theo đuổi kiên trì nhất, thì bộ Vi Diệu Pháp Toát Yếu (Abhiddhammattha Sangaha) được coi là chiếc chià khoá không thể thiếu được trong việc mở kho tàng vĩ đại này cuả trí tuệ Phật.


Vi Diệu Pháp


Trung tâm cuả triết lý cuả Luận là Abhidhamma Pitaka,(Tạng Vi Diệu Pháp) một trong các bộ phận thuộc kho tàng kinh điển được Phật giáo Therevada công nhận là chính truyền cuả Phật Pháp. Kho tàng kinh điển này được soạn thảo bởi ba Hội đồng Phật giáo lớn được tổ chúc tại Ấn độ trong những thế kỷ đầu sau khi Phật viên tịch. Hội đồng đầu tiên tại Rajagaha, được triệu tập 3 tháng sau khi Phật nhập Niết bàn với 500 Đại đức dưới sự chủ trì của Sơ tổ Mahakassapa (Đại Ca-diếp); Hội đồng thứ hai tại Vesali, cả trăm năm sau; và Hội đồng thứ ba, tại Pataliputta, hai trăm năm sau nưã. Kho tàng kinh điển xuất hiện từ các hội đồng này, được bảo tồn bằng ngôn ngữ Trung Ấn, ngày nay gọi là tiếng Pali, được biết đến là Tam tạng (Tipitaka), hay ba “cái rỗ” hay là ba bộ sưu tập lời giáo huấn cuả Phật. Bộ sưu tập thứ nhất, bộ Vinaya Pitaka, là bộ sách nói về Luật, chưá đựng các qui định ứng xử cuả tỳ kheo và tỳ kheo ni (nam và nữ tu sĩ) và các qui định điều chỉnh tăng già (tập thể tăng chúng), nề nếp tu viện. Bộ sưu tập thứ hai là bộ Sutta Pitaka (Kinh tạng), tập hợp các bài giảng do chính Đức Phật nói ra trong nhiều dịp khác nhau trong suốt thời gian hành đạo năng động cuả ngài trong 45 năm. Và bộ sưu tập thứ ba là Abhidhamma Pitaka (Tạng Vi Diệu Pháp), là “rổ” chưá đựng học thuyết “cao hơn” hay “chuyên biệt” cuả Đức Phật.


Tạng thứ ba vĩ đại này trong kho tàng kinh điển Pali có tính đặc thù biện biệt khác hai tạng kia. Trong khi Kinh và Luật phục vụ mục đích cụ thể, rõ ràng, tức là, tuyên bố rõ ràng thông điệp giải thoát và đề ra phương pháp tu luyện cá nhân, thì Tạng Vi Diệu Pháp trình bày diện mạo hệ thống hoá mang tính kỹ thuật cao và trưù tượng cuả học thuyết. Bộ sưu tập bao gồm bảy quyển: Bộ Pháp Tụ (Dhammasangani), Bộ Phân Tích (Phân Biệt - Vibhanga), Bộ Chất Ngữ (Giới Thuyết - Dhatukatha), Bộ Nhân Chế Định (Nhân Thi Thuyết - Puggalapannati), Bộ Ngữ Tông (Kathavattu), Bộ Song Đối (Song Luận - Yamaka) và Bộ Vị Trí (Phát Thú - Patthana). Không như Kinh Tạng, đây không phải là những ghi chép những bài giảng, đàm luận xảy ra trong bối cảnh đời sống thực ; hơn thế, chúng là những luận đề toàn diện trong đó những nguyên lý cuả học thuyết được tổ chức có phương pháp, xác định chi li , lập thành bảng và phân loại tỉ mỉ . Dù rằng, không nghi ngờ gì nưã, thoạt đầu chúng được soạn thảo, truyền miệng và chỉ được ghi chép lại sau này, so với phần còn lại cuả kho tàng kinh điển trong thế kỷ thứ nhất sau C.N., chúng hiển lộ những phẩm chất cuả các tư tưởng được cấu trúc và sự nhất quán chặt chẽ đặc trưng hơn cho loại tài dạng viết.


Theo truyền thuyết Therevada , tạng luận được gìn giữ với sự kính trọng cao nhất, được kính trọng như là châu báu vương miện cuả kinh điển Phật giáo. Điển hình cho cao trọng này, ở Sri Lanka nhà vua Kassapa V (thế kỷ thứ 10 sau CN) đã cho khắc toàn bộ Luận Tạng trên các điã vàng và cho nạm ngọc quyển đầu tiên, trong khi một vị vua khác , vua Vijayabahu (thế kỷ 11) thường nghiên cứu Bộ Pháp Tụ - Dhammasagani vào mỗi sáng trước khi ngự triều và soạn một bản dịch quyển ấy sang tiếng Sinhala. Tuy nhiên khi đọc lướt qua, ta cảm thấy khó hiểu về sự tôn kính đối với Luân. Bản văn có vẻ như chỉ là một bài tập mang tính học thuật trong việc sử dụng các thuật ngữ học thuyết trưù tượng, lập đi lập lại nặng nề, nhàm chán.


Chỉ khi ta nghiên cứu Tạng Vi Diệu Pháp một cách toàn diện và tư duy sâu sắc với lòng tin mạnh mẽ rằng những quyển sách cổ này ắt hẳn có những điều thật ý nghiã cần truyền đạt, thì lý do cuả việc tôn kính Tạng Vi Diệu Pháp mới hiển lộ. Khi ta tiếp cận các bài giảng cuả Tạng Vi Diệu Pháp với tinh thần như vậy và đã đạt được sự thấu hiểu ở chừng mực nào đó vào những hàm ý rộng lớn và sự thống nhất hữu cơ cuả chúng, ta mới phát hiện ra rằng chúng không nỗ lực nhằm vào cái gì khác hơn là truyền đạt sự khải ngộ toàn diện về cái một -toàn -thể về chân lý hiện thực được thể nghiệm, một sự khải ngộ mang dấu ấn cuả mở rộng giới hạn, cuả sự hoàn chỉnh hệ thống và sự chính xác trong phân tích. Theo quan điểm chính thống của Phật giáo Therevada, hệ thống mà họ trình bày không phải là sự sai lầm cuả những tư tưởng mang tính lý thuyết, không phải là sự pha tạp cuả những giả thuyết siêu hình mà là sự phát lộ chân bản chất cuả hiện hữu như được tâm thấu hiểu, cái tâm đã thâm nhập vào cái một-toàn-thể cuả sự vật cả về chiều sâu lẫn về chi tiết tế vi nhất. Bởi vì tính chất này mà truyền thuyết Phật giáoTherevada xem Tạng Vi Diệu Pháp là sự thể hiện hoàn thiện nhất có thể có được cuả kiến thức Đức Phật bao trùm không gì cản ngại (trí huệ) (sabbannuta-nana). Đó là khẳng định cuả ngài về cách mà sự vật xuất hiện đối với tâm cuả Đấng Giác Ngộ Viên mãn, được an định theo hai cực cuả giáo lý cuả ngài: khổ và chấm dứt (thoát) khổ.


Hệ thống mà Tạng Vi Diệu Pháp trình bày đồng thời là triết học, tâm lý học, và đạo đức học, tất cả hội nhập trong khuôn khổ cuả một chương trình giải thoát. Tạng Vi Diệu Pháp có thể được mô tả như là triết học bởi vì nó đề xuất một bản thể luận, một dự phóng về bản chất cuả hiện thực.Dự phóng này được gọi là pháp luận (học thuyết về pháp). Một cách ngắn gọn, pháp luận cho rằng hiện thực tối thượng bao gồm hằng hà sa số các yếu tố thành phần gọi là chư pháp. Chư pháp không phải là cái ẩn dấu sau hiện tượng , không phải vật tư thân như là đối lập với chỉ là diện mạo, nhưng là những yếu tố thành phần nền tảng cuả hiện thực. Chư pháp chia làm hai lớp rộng: pháp không bị qui định, tức là Niết bàn độc hưũ, và pháp bị qui định, là những hiện tượng vật chất tinh thần phù du tạo nên quá trình cuả kinh nghiệm. Thế giới quen thuộc cuả những vật cụ thể và những con người tồn tại khổ đau , theo pháp luận, một dạng khái niệm do tâm khuôn đúc từ những nguyên dữ liệu do chư pháp đem lại. Thực thể cuả khung tham chiếu hàng ngày cuả chúng ta chỉ là hiện thức đối cảm quan có nguồn gốc từ các tầng cơ sở cuả chư pháp. Duy chỉ có chư pháp mới sở đắc được chân lý hiện thực tối hậu: hiện hưũ hạn từ phiá tự thân cuả chúng (sarupato) độc lập với quá trình khái niệm hoá các dữ liệu cuả tâm.


Một khái niệm như thế về bản chất cuả hiện thưc dường như đã ẩn tàng trong Kinh Tạng đặc biệt là trong các bài giảng cuả Đức Phật về các thức, uẩn, đại (ví dụ tứ đại), nhân duyên, v.v., nhưng nó vẫn còn ẩn tàng phiá sau như là cơ sở cho những giáo lý được khuôn đúc một cách thực tiễn hơn trong Kinh điển. Ngay trong chính Luận Tạng , pháp luận vẫn chưa được trình bày như là nguyên lý triết học rõ ràng ; điều này chỉ xuất hiện về sau, trong các bản Chú Giải (Commentaries). Tuy nhiên, dù là tìm ẩn, pháp luận vẫn được tập trung quan tâm trong vai trò là nguyên tắc điều hành phiá sau nhiệm vụ hiển nhiên hơn cuả Tạng Vi Diệu Pháp, dự phóng cuả việc hệ thống hoá.


Đề án này khởi sự từ tiền đề rằng để đạt được trí huệ hiểu được sự vật “như chúng thực sự là”, một cái nêm thật sắc phải được đóng vào giưã những loại thực thể sở đắc tối thượng bản thể học, nghiã là, chư pháp, và những thực thể chỉ tồn tại như là những dạng thức khái niệm nhưng bị nhận thức sai lầm là thực thể tối thượng. Tiến hành từ điểm biện biệt này, Tạng Vi Diệu Pháp chấp nhận một tiền đề về con số cố định cuả chư pháp như là cơ sở cuả hiện thực , mà hầu hết đều được rút ra từ Kinh điển. Rồi nó bắt đầu định nghiã tất cả những thuật ngữ kinh điển dùng trong Tạng Kinh theo cách cho thấy sự đồng nhất cuả chúng với những thực thể tối thượng bản thể học được hệ thống công nhận. Trên cơ sở cuả những định nghiã này nó xếp loại toàn diện chư pháp vào mạng cuả những phạm trù tiên định và các phương thức quan hệ làm nổi bật vị trí cuả chúng trong cấu trúc cuả hệ thống. Và bởi vì hệ thống được cho là phản ảnh chân thực cuả hiện thực, điều này có nghiã là việc phân loại xác định vị trí cuả mỗi pháp trong toàn bộ cấu trúc cuả hiện thực


Nổ lực cuả Tạng Vi Diệu Pháp nhằm thấu hiểu bản chất cuả hiện thực, trái với nỗ lực cuả khoa học truyền thuyết phương Tây , không tiến hành từ quan điểm cuả người quan sát bàng quang nhìn một cách hướng ngoại về thế giới bên ngoài. Mối quan tâm lớn nhất cuả Tạng Vi Diệu Pháp là hiểu bản chất cuả kinh nghiệm, và do đó bản chất cuả hiện thực mà nó tập trung vào là hiện thực ý thức , thế giới đươc mang lại trong kinh nghiệm, bao gồm cả kiến thức và cái-biết -được với nghiã rộng nhất. Vì lý do này nỗ lực triết học cuả Tạng Luận thu tóm thành một tâm lý học hiện tượng logic. Để có thể hiểu hiện thực được thể nghiệm, Tạng Luận tiến hành phân tích toàn diện cái tâm như là nó tự hiển lộ khi thiền đinh hồi quang. Nó phân chia ý thức thành nhiều chủng loại đa dạng, nêu cụ thể những yếu tố và chức năng cuả mỗi loại, gắn kết chúng với các đối tượng cuả chúng và các cơ cở triết học cuả chúng, và cho thấy các chủng loại khác nhau cuả ý thức kết nối với nhau ra sao và với hiện tượng vật chất để tạo thành quá trình kinh nghiệm tiếp diễn.


Việc phân tích tâm như vậy không phải do động cơ hiếu kỳ phi thực tiễn mà chính vì mục đích thực tiễn xuyên suốt giáo lý Đức Phật, chứng đạt thoát khổ. Vì Đức Phật truy nguyên khổ từ các thái độ nhiễm trần cuả chúng ta - một định hướng tinh thần bắt nguồn từ tham, sân, si - Tâm lý học hiện tượng lô-gich cuả Luận cũng mang tính chất cuả đạo đức tâm lý , đạo đức không hiểu theo nghiã hẹp cuả những chuẩn mực luân lý mà là toàn bộ sự dẫn đạo đến cuộc sống cao thượng và thanh lọc tâm hồn. Theo đó, chúng ta phát hiện ra rằng Vi Diệu Pháp phân biệt các trạng thái cuả tâm dưạ trên các tiêu chuẩn đạo đức: lành mạnh hay không lành mạnh, những yếu tố đẹp và những điều hư hỏng (tịnh >< cấu). Nó sơ đồ hoá ý thức theo dạng từ thấp đến cao tuỳ ứng với các bậc thành công trong việc thanh lọc mà đệ tử Phật chứng đạt bằng cách tu tập theo con đường cuả Đức Phật. Sơ đồ này cho thấy sự luyện tâm qua sự tinh tiến thâm nhập thiền, các cảnh giới thiền vật chất tế vi và tầng thiền phi phi tưởng, rồi đến các bậc nội quan và trí huệ cuả các con đường thoát tục và chứng quả. Cuối cùng, nó pha từ lộ toàn bộ qui mô phát triển đạo đức đến điểm đỉnh cuả việc thanh lọc viên mãn đạt được với tâm- giải - thoát - bất -thoái - chuyển khỏi các phiền trược.


Tất cả ba chiều cuả Tạng Luận - triết học, tâm lý học, đạo đức học - có nguyên uỷ từ hòn đá tảng cuả giáo lý cuả Đức Phật, chương trình giải thoát được tuyên bố qua Tứ Thánh Đế. Sự khảo sát bản thể học về chư pháp bắt nguồn từ huấn lệnh cuả Đức Phật là Khổ Đế, đồng nhất với các hiện tượng bị qui định (ràng buộc) như là một toàn thể phải được giác ngộ (parinneyya). Sự nổi bật cuả các phiển trược về tinh thần và sự tất yếu phải giác ngộ trong hệ thống các phạm trù cuả nó, là chỉ dấu cho mối quan hệ tâm lý học và đạo đức học cuả nó, kết nối Luận với đệ nhị và đệ tứ Thánh Đế, nguồn gốc cuả khổ và con đường dẫn đến chấm dứt khổ. Và toàn bộ việc phân loại phạm trù cuả chư pháp được hệ thống nghiên cứu cách chi tiết đạt mức hoàn hảo cuả nó trong “nguyên tố không còn bị qui định” (asankhata dhatu) tức là Niết bàn, đệ tam Thánh Đế, chấm dứt khổ.


Phương Pháp Xếp Đôi


Nhà Phật luận nỗi tiếng, Acarya Buddhaghosa, giải thích từ “Tạng Vi Diệu Pháp” với nghiã là “ vượt lên trên Pháp” (dhammatireka - dhammavisesa), tiền tố abhi có nghiã là siêu việt và nổi bật, và dhamma ở đây có nghiã là giáo pháp cuả Đức Phật trong Tạng Kinh. Khi Tạng Vi Diệu Pháp được cho là vượt lên giáo lý cuả Tạng kinh, thì điều đó không có ý cho rằng giáo lý cuả kinh có khiếm khuyết ở chừng mực nào đó hoặc là Tạng Luận tuyên bố khải ngộ mới nào đó về học thuyết áo bí mà Tạng kinh chưa hề biết đến. Cả Tạng Kinh và Tạng Luận đều đặt nền móng trên học thuyết duy nhất cuả Đức Phật về Tứ Diệu Đế, và tất cả những nguyên tắc cốt yếu cho sự đạt ngộ đã được Kinh Tạng minh giải. Cái khác giưã Kinh và Luận không hề liên quan đến các nguyên lý nền tảng mà là, chính ra, một phần ở phạm vi, một phần là vấn đề phương pháp.


Về phạm vi, Luận đề ra cách xử lý thấu đáo và toàn diện mà trong Kinh Tạng không thấy có. Acariya Buddhaghosa giải thích rằng trong Tạng Kinh những phạm trù trừu tượng mang tính học thuyết như ngũ uẩn, thập nhị xứ, Thập bát chất và v.v., chỉ được phân loại một phần, trong khi trong Luận Tạng, chúng được phân loại đầy đủ theo các lược đồ phân loại khác nhau, một số giống như trong Tạng Kinh, số khác chỉ có trong Tạng Luận. Như vậy Tạng Luận có phạm vi và tế vi làm cho nó khác với Kinh Tạng.


Một lãnh vực quan trọng khác cuả sự khác biệt liên quan đến phương pháp. Các bài giảng trong Kinh Tạng được Đức Phật thuyết giảng trong nhiều hoàn cảnh đa dạng cho các thính giả với nhiều trình độ thính pháp khác nhau. Những bài giảng ấy thoạt đầu có ý làm cho dễ hiểu (mang tính sư phạm), được đưa ra theo cách làm thế nào cho có hiệu quả nhất trong việc hướng dẫn thính giả thực hành giáo lý và thâm nhập được chân lý cuả giaó lý. Để đạt được mục đích này, Đức Phật thoải mái dùng các phương tiện giảng giải dễ hiểu làm cho thính giả lĩnh hội được học thuyết. Ngài dùng các phương pháp tương đồng, ẩn dụ; Ngài thôi thúc, kuyên nhủ, động viên; ngài nắm bắt được xu hướng, thái độ cuả thính giả và điều chỉnh cách trình bày giáo lý để có thể tạo được sự đáp ứng tích cực . Do đó mà phương pháp trong Kinh được mô tả là bài giảng đầy hình ảnh và hoa mỹ về Pháp (pariyaaaya-dhammadesana).


Trái ngược với Tạng Kinh, Tạng Luật (Vi Diệu Pháp) nhằm mở toang trưc tiếp và đơn giản hệ thống nhất thể toàn cục ẩn tàng bên dưới sự hiển lộ cuả Tạng Kinh và gốc xuất phát cuả các bài giảng. Vi Diệu Pháp không quan tâm đến xu hướng cá nhân và trình độ nhận thức cuả thính giả; nó không nhượng bộ bất cứ những yêu cầu thực tiễn đặc thù nào. Nó cho thấy thiết kế kết cấu cuả hiện thực theo phong cách trừu tượng, chính thống hoàn hoàn không có chỗ cho ngôn từ hoa mỹ, các biện pháp hỗ trợ dễ hiểu. Do đó phương pháp cuả Luận được mô tả là bài giảng chân phương, không hoa mỹ về Pháp (nippariyaya-dhammadesana).


Sư khác nhau về kỹ thuật giưã hai phương pháp cũng có ãnh hưởng đến hệ thống thuật ngữ tương ứng. Trong Tạng kinh Phật thường dùng ngôn ngữ qui ước (voharavacana) và chấp nhận chân lý qui ước (sammutisacca), chân lý được diễn đạt bằng các từ ngữ thực tại không chứa đựng chân lý tối thượng bản thể học nhưng vẫn nói được đúng mức về chúng. Do đó trong Tạng Kinh, Đức Phật nói đến “Tôi”, “anh”, nói đến “nam”, và ”nữ”, nói đến chúng sinh, con người ngay cả bản ngã như là những thực thể cụ thể. Phương pháp trình bày cuả Tạng Luận, tuy nhiên hạn chế nghiêm ngặt trong vòng các thuật ngữ có giá trị trên quan điểm cuả chân lý tối thượng (paramatthtasacca): chư pháp, các tính chất cuả chúng, các chức năng cuả chúng, và các mối quan hệ cuả chúng. Do đó trong Tạng Luận tất cả những thực thể mang tính khái niệm tạm thời được chấp nhận trong Tạng Kinh như thế nhằm mục đích truyền thông cụ thể được chuyển thành mục tiêu bản thể học tối thượng, thành các hiện tượng vật chất tinh thấn trần trụi vô thường, triền phược (bị qui định), nhân duyên sinh (phát sinh tuỳ thuộc), vô ngã, không.


Nhưng một sự định tính là cấn thiết. Khi có sự phân biệt giưã hai phuơng pháp, điều này phải được hiểu là được căn cứ trên điều đặc trưng cho mổi Tạng và không nên hiểu là sự phân biệt tuyệt đối. Ở chừng mực nào đó hai phượng pháp thâm nhập lẫn nhau, chồng lấn nhau. Do đó trong Kinh Tạng chúng ta tìm thấy những bài giảng sử dụng những thuật ngữ triết học nghiêm túc như uẩn, xứ, đại, etc., và như thế nằm trong phạm vi cuả phương pháp cuả Tạng Luận. Lại nưã trong Luận Tạng ta còn tìm thấy những phần, ngay cả cả quyển Nhân Chế Định (Puggalapannatti), ly khai khỏi cách diễn đạt trang nghiêm và việc sử dụng các thuật ngữ qui ước, và như vậy rơi vào phảm vi phương pháp cuả Kinh.


Các đặc điểm riêng cuả Luận


Ngoài việc gắn chặt với phuơng pháp trình bày triết học cuả mình, Luận Tạng còn có những đóng góp quan trọng đối với nhiệm vụ hệ thống hoá cuả mình. Một trong những đóng góp đó là việc sử dụng, trong các sách chính cuả Luận Tạng, một matika - một ma trận hoặc là sơ đồ các phạm trù - như là sơ đồ cho toàn bộ toàn bộ cấu trúc. Ma trận này , ở đầu quyển Pháp Tụ - Dhammasangani như là lời nói đầu thích hợp cuả Luận Tạng, gồm 122 cách phân loại đặc thù cho phương pháp cuả Luận. Trong số đó, có 22 nhóm 3 (tika), các bộ từng 3 thuật ngữ mà theo đó các pháp nền tảng được phân bố; còn lại là hàng trăm nhóm 2 (duka), các bộ gồm 2 thuật ngữ dùng làm cơ sở cho việc xếp loại. Ma trận dùng như là một loại mạng để phân loại kinh nghiệm phức tạp đa dạng phù hợp với những nguyên tắc được quyết định bởi những mục đích cuả Pháp. Ví dụ những nhóm 3 bao gồm những bộ nói về tình trạng như kiện khang, không kiện khang và không quyết định; những tình trạng gắn với những cảm xúc vui tươi, cảm xúc đau đớn, cảm xúc trung tính; những tình trạng là kết quả của nghiệp, dẫn xuất từ những kết quả cuả nghiệp, không thuộc hai cái trước v.v. Những nhóm hai bao gồm những bộ như những tình trạng các căn, không phải các căn; những tình trạng tuỳ thuộc với các căn, không tuỳ thuộc như vậy; những tính trạng bị qui định, không bị qui định; những tình trạng trần tục, siêu trần; v.v. Bằng cách chọn những phạm trù, ma trận quán xuyến tổng thể các hiện tượng, chiếu sáng chúng từ hàng loạt các góc khác nhau về triết thọc, tâm lý học và đạo đức học trong bản chất.


Điểm riêng thứ hai cuả Luận là phân đoạn dòng ý thức hiển hiện liên tục thành những chuỗi những sự kiện tinh thần ngắn nguỉ gọi là citta (chất đa: tâm ý), mỗi đơn nguyên phức thể như vậy tham gia vào chính bản thân ý thức, với tư cách sự ý thức cơ bản cuả một đối tượng, và tập hợp các yếu tố tinh thần (cetasika) thực hiện các nhiệm vụ chuyên biệt hơn trong hành động nhận thức. Quan điểm như vậy về ý thức, ít nhất là ở bước phát hoạ, có thễ sẵn sàng rút ra từ sự phân tách cuả Kinh Tạng về kinh nghiệm thành ngủ uẩn, trong đó bốn uẩn tinh thần (thọ tưởng, hành thức) luôn gắn kết không rời, nhưng khái niệm vẩn còn đấy chỉ như là gợi mở. Trong Luận Tạng sự gợi mở không chỉ là chỉ ra mà còn là mở rộng thành một bức tranh cực kỳ chi tiết và chặt chẽ cuả chức năng nhận thức trong cả trong khoảnh khắc tức thì vĩ mô lẫn trong sự miên tục (liên tục triền miên) đời đời. <>
Sự đóng góp thứ ba khởi sinh từ sự thôi thúc thiết lập trật tự giưã đám lộn xộn cuả các thuật ngữ làm nên sự phổ biến cuả các bài giảng Phật giáo. Trong việc xác định mỗi trong chư pháp, các văn bản cuả Luận tập hợp các danh sách liệt kê dài các từ đồng nghiã hầu hết rút ra từ Tạng kinh. Phương pháp định nghiã này cho thấy cách mà một pháp riêng lẻ có thể mang những tên khác nhau vào trong các bộ phạm trù khác nhau. Ví dụ, trong những phiền não, yếu tố tinh thần cuả thân (lobha) có thể tìm thấy như là nhiễm dục cảm quan, nhiễm (ham) sống, sự ràng buộc tham lam về thể xác, đeo bám các thú vui cảm quan, sự cản ngại cuả ham muốn cảm quan, etc; trong số những yêu cầu giác ngộ, yếu tố tinh thần cuả trí tuệ (panna) có thể được tìm thấy với tư cách là khã năng và sức mạnh cuả trí tuệ, yếu tố giác ngộ cuả việc truy vấn các tình trạng, yếu tố dẫn đạo cuả chính kiến, etc.Trong vệc thiết lập các mối quan hệ này, Luận giúp hiển bày mối quan hệ hỗ tương giưã các thuật ngữ trừu tượng có thể không rõ ràng chính trong chư Kinh.Trong quá trình nó cũng cung cấp các công cụ chế tác chính xác để hiểu các bài giảng cuả Đức Phật


Sự đóng góp thứ ba khởi sinh từ sự thôi thúc thiết lập trật tự giưã đám lộn xộn cuả các thuật ngữ làm nên sự phổ biến cuả các bài giảng Phật giáo. Trong việc xác định mỗi trong chư pháp, các văn bản cuả Luận tập hợp các danh sách liệt kê dài các từ đồng nghiã hầu hết rút ra từ Tạng kinh. Phương pháp định nghiã này cho thấy cách mà một pháp riêng lẻ có thể mang những tên khác nhau vào trong các bộ phạm trù khác nhau. Ví dụ, trong những phiền não, yếu tố tinh thần cuả thân (lobha) có thể tìm thấy như là nhiễm dục cảm quan, nhiễm (ham) sống, sự ràng buộc tham lam về thể xác, đeo bám các thú vui cảm quan, sự cản ngại cuả ham muốn cảm quan, etc; trong số những yêu cầu giác ngộ, yếu tố tinh thần cuả trí tuệ (panna) có thể được tìm thấy với tư cách là khã năng và sức mạnh cuả trí tuệ, yếu tố giác ngộ cuả việc truy vấn các tình trạng, yếu tố dẫn đạo cuả chính kiến, etc.Trong vệc thiết lập các mối quan hệ này, Luận giúp hiển bày mối quan hệ hỗ tương giưã các thuật ngữ trừu tượng có thể không rõ ràng chính trong chư Kinh.Trong quá trình nó cũng cung cấp các công cụ chế tác chính xác để hiểu các bài giảng cuả Đức Phật


Nhận thức cuả Luận về ý thức mang lại kết quả xa hơn nưã trong một sơ đồ quan trọng để phân loại các yếu tố tối thượng hình thành hiện thực, một sơ đồ cuối cùng, trong văn bản cuả Luận về sau chiếm ưu thế hơn các sơ đồ thừa kế từ Tạng Kinh như là uẩn, xứ, đại. Trong Luận Tạng, các phạm trù sau vẫn còn rõ ràng, nhưng quan điểm về tâm như là bao gồm những dự hội tụ thoáng qua cuả ý thức và các yếu tố tuỳ thuộc dẫn đến phương pháp phân loại gấp bốn phù hợp hơn với hệ thống. Đó là việc phân chia hiện thực ra thành bốn thực thể tối thượng (paramattha): ý thức, các yếu tố tinh thần, các hiện tượng vật chất và Niết bàn (citta, cetasika, rupa, nibbana), ba cái trước bao gồm hiện thực bị ràng buộc (bị qui định) và cái cuối cùng là yếu tố không bị qui định.


Điểm mới cuối cùng cuả phương pháp cuả Luận được ghi nhận ở đây - do quyển cuối cùng cuả Tạng đóng góp,là Bộ Vị Trí (Phát Thú - Patthana ) là một bộ 24 mối quan hệ ràng buộc được đưa ra làm thấy cách các hiện thực tối tượng được kết thành các quá trình trật tự. Sơ đồ này cuả các điều kiện cung cấp sự bổ sung cần thiết cho phương pháp phân tích thống trị các quyển trước cuả Luận. Phương pháp phân tích tiến hành bằng cách phân chia cái toàn thể hiển nhiên thành các yếu tố thành phần cuả chúng, theo đó phơi bày cái không cuả bất cư cốt lõi bất khả phân nào mà có thể cho là ngã hay chất. Phương pháp tổng hợp sắp xếp các mối quan hệ có điều kiện cuả các hiện tượng trần trụi do sự phân tích đem lại cho thấy chúng không phải là các đơn vị tự hữu biệt lập mà là những nút trong một mạng nhiều tầng lớp mênh mông cuả các sự kiện tương liên, tuỳ thuộc lẫn nhau. Chẳng hạn, phương pháp phân tích những bài giảng trước đây cuả Luận Tạng và phương pháp tổng hợp cuả Bộ Vị Trí (Phát Thú - Patthana thiết lập sự thống nhất nền tảng cho những nguyên lý triết học song sinh cuả Phật giáo, vô ngã (anatta, non-self hay egolessness). Do đó nền tảng cuả phương pháp luận cuả Luận vẫn là sự hài hoà tuyệt vời với sự chiếu kiến nội quan nằm trong lòng cuả Pháp.


Các nguồn gốc của Tạng Luận (Vi Diệu Pháp)


Mặc dù học thật phê bình hiện đại cố gắng giải thích sự hình thành cuả Luận bằng quá trình phát triển tiến hoá dần dần, chính thống giáo Therevada cho rằng sự ra đời cuả nó gắn với Đức Phật. Theo Đại luận văn (maha-atthakathaa) do Acariya Buddhaghosa trích dẫn, Luân được biết không phải là lĩnh vực cũng không phải là phạm vi cuả một tông đồ; nó là phạm vi, lĩnh vực cuả chư Phật. Hơn nưã, truyền thuyết luận văn cho rằng nó không chỉ là tinh thần cuả Luận, mà cả ngôn từ nuã, đã được Đức Phật thực hiện và rao giảng trong khi ngài còn tại thế.


Atthasalini kể rằng trong bốn tuần lễ sau khi Đại ngộ, trong khi Đức Thế tôn vẫn còn lưu lại trong phạm vi gần Cội Bồ Đề, ngài an toạ trong một ngôi nhà bằng châu báu (ratanaghara) về hướng tây bắc. Ngôi nhà này không phải thật sư làm bằng đá quí, nhưng là nơi ngài quán tưởng về bảy quyển thuộc Luận Tạng. Ngài tuần tự quán tưởng về nội dung cuả chúng, bắt đầu với quyển Pháp Tụ - Dhammasangani, tuy nhiên trong khi quán xét sáu quyển đầu, thân ngài không phát hào quang. Nhưng khi ngài quán tưởng đến quyển Vị Trí (Phát Thú - Patthana, khi ngài quán tưởng đến 24 mối quan hệ ràng buộc như căn nguyên, đối tượng , và v.v. đại trí cuả ngài mới tìm thấy cơ duyên trong đó. Như đại kình ngư Timiratipingala chỉ tìm thấy nơi vẫy vùng cuả mình ở độ sâu 84.000 yojana dưới biển sâu, như thế, đại trí cuả ngài chỉ tìm thấy đất dụng võ trong Đại thư. Hào quang sáu màu - xanh ngọc, vàng ánh kim, đỏ, trắng, vàng nâu và ánh kim lấp lánh - phóng ra từ thân cuả Đấng Đại sư, khi ngài quán tưởng Pháp vi diệu, cơ duyên cho đại trí cuả ngài.


Chính thống giáo Therevada do đó chủ trương rằng Luận Tạng là chân ngôn cuả Phật, về phương diện này khác với một trường phái đối lập trước đây, trường phái Sarvastivadins. Trường phái này cũng có Luận Tạng gồm bảy quyển, khác về chi tiết với những bài giàng cuả Phật Giáo Nguyên Thủy Therevada. Theo phái Sarvastivadins, các quyển thuộc Luận Tạng là do các đệ tử Phật soạn ra, trong đó có mấy quyển được cho là cuả các tác giả có vẻ thuộc các thế hệ sau Đức Phật. Tuy nhiên trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy Therevada cho rằng chính Đấng Thế Tôn đã giảng các quyển thuộc Tạng Luận, ngoại trừ việc bác bỏ có thẳng thừng những quan điểm khác biệt trong Bộ Ngữ Tông (Biện Giải - Kathavatthu), là tác phẩm cuả kỳ lão Moggaliputta Tissa trong thời trị vì cuả Hoàng đế Asoka.


Các bản Chú Giải Pali, rõ ràng căn cứ vào một truyền thuyết truyền miệng, cho rằng Đức Phật giảng Luận, không phải trong cõi người cho các đệ tử người cuả ngài, mà là cho một tập hợp chư thiên trên cõi trời Tavatimsa (Đạo lợi). Theo truyền thuyết này, chỉ trước khi nhập thất hằng năm lần thứ bảy vào muà mưa, Đức Thế tôn thăng lên cõi trời Đạo lợi và ở đấy, an toạ trên đá Pandukambala dưới gốc cây Paricchahataka, trong ba tháng muà mưa ngài giảng Luận cho chư thiên tập hợp từ ba nghìn thế giới. Người được chọn nhận pháp chính là mẹ ngài, Mahamaya-devi, người đã tái sinh lên cõi trời thay vì cõi người. Lý do Đức Phật giảng Luận trên cõi trời thay vì cõi người, theo truyền thuyết, là để có thể giảng Luận trọn trong một buổi giảng về toàn cảnh cuả Luận từ đầu đến cuối cho cùng đối tượng thính giả.. Bởi vì trình bày đầy đủ Luận cần ba tháng, chỉ chư thiên và Trời Phạm Thiên (Bhrama) mới có thể tiếp thu liên tục không gián đoạn, vì chỉ có họ mới có khả năng giữ vững ở một tư thế trong thời gian dài như vậy.


Tuy nhiên, mỗi ngày, để duy trì thân thể của mình, Đức Phật xuống cõi người khất thực ở vùng phiá bắc Uttarakuru. Sau khi khất thực xong, ngài đi đến bờ hồ Anotatta để thọ trai. Trưởng lảo Sariputta, Tổng Trì Pháp, sẽ đến diện kiến Đức Phật để nhận tóm tắt giáo lý giảng trong ngày trên cõi trời: Rồi Đức Phật trao cho ông phương pháp, nói rằng, “Sariputta, có vô vàn giáo pháp đã được trình bày” . Như thế đấy, Đức Phật trao phương pháp cho truởng lão, người rất giỏi về kiến thức phân tích, khi ngài đứng trên bờ và mở bàn tay chỉ ra biển. Đối với Trưởng lão giáo pháp do Đức Thế tôn giảng dạy bằng trăm ngàn phương pháp cũng trở nên sáng tỏ.7”


Học được Pháp từ Đức Thế tôn, Sariputta lại đem truyền lại cho 500 đồ đệ cuả mình, và thế là bản Chú Giải Luận Tạng được thiết lập. Đối với Đại đức Sariputta được cho là sắp đặt trật tư cuả các bài giảng cuả Luận Tạng cũng như là đánh số thứ tự trong quyển Vị Trí (Phát Thú – Patthana). Có lẽ ta nên tìm thấy trong những xác nhận này cuả Atthasalini một sự xác nhận gián tiếp rằng trong khi nhãn quan triết học và cấu trúc nền tảng cuả Luận Tạng là xuất phát từ Đức Phật, việc trình bày các chi tiết, và ngay cả chính khuôn mẫu văn bản là thuộc về Đại tông đồ và các đồ đệ cuả ông. Trong các trường phái đạo Phật khác cận thời Đức Phật, thì Luận cũng liên quan mật thiết đến Đaị đức Sariputta, người mà theo các truyền thuyết được coi là tác giả văn bản cuả các bài giảng cuả Luận.