Quyển 1 - Phẩm Phương Tiện

Monday, 03 January 20228:37 AM(View: 1399)
Quyển 1 - Phẩm Phương Tiện

KINH DIỆU-PHÁP LIÊN HOA (1)
Quyển 1

PHẨM "PHƯƠNG TIỆN" (31) THỨ HAI

1. Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Trí-huệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh-văn cùng Tích-chi-Phật đều không biết được. Vì sao?

 Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức, vô số các đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dõng mãnh tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.

 Xá-Lợi-Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp. Vì sao? Đức Như-Lai đã đầy đủ phương tiệntri kiến và ba-la-mật.

 Xá-Lợi-Phất! Tri kiến của Như-Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượngvô-ngại-lực, vô-sở-úy, thiền-định, giải-thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.

 Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ im dịu vui đẹp lòng chúng.

 Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.

 2. Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng 
chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.

 3. Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệrằng:

Đấng Thế-Hùng khó lường

 Các trời cùng người đời
 Tất cả loài chúng sanh
 Không ai hiểu được Phật
 Trí-lực, vô-sở-úy
 Giải thoát các tam-muội
 Các pháp khác của Phật
 Không ai so lường được
 Vốn từ vô số Phật
 Đầy đủ tu các đạo
 Pháp nhiệm mầu rất sâu
 Khó thấy khó rõ được
 Trong vô lượng ức kiếp
 Tu các đạo đó rồi
 Đạo tràng được chứng quả
 Ta đều đã thấy biết
 Quả báo lớn như vậy
 Các món tính tướng nghĩa
 Ta cùng mười phương Phật
 Mới biết được việc đó

 4. Pháp đó không chỉ được

 Vắng bặt tướng nói năng
 Các loài chúng sinh khác
 Không có ai hiểu được
 Trừ các chúng Bồ-Tát
 Người sức tin bền chặt
 Các hàng đệ tử Phật
 Từng cúng dường các Phật
 Tất cả lậu đã hết
 Trụ thân rốt sau này
 Các hạng người vậy thảy
 Sức họ không kham được,
 Giả sử đầy thế gian
 Đều như Xá-Lợi-Phất
 Cùng suy chung so lường
 Chẳng lường được Phật trí
 Chính sử khắp mười phương
 Đều như Xá-Lợi-Phất
 Và các đệ-tử khác
 Cũng đầy mười phương cõi
 Cùng suy chung so lường
 Cũng lại chẳng biết được.
 Bậc Duyên-giác trí lành
 Vô lậu thân rốt sau
 Cũng đầy mười phương cõi
 Số đông như rừng tre,
 Hạng này chung một lòng
 Trong vô lượng ức kiếp
 Muốn xét Phật thật trí
 Chẳng biết được chút phần.
 Bồ-Tát mới phát tâm
 Cúng dường vô số Phật
 Rõ thấu các nghĩa thú
 Lại hay khéo nói pháp
 Như lúa, mè, tre, lau
 Đông đầy mười phương cõi
 Một lòng dùng trí mầu
 Trải số kiếp hằng sa
 Thảy đều chung suy lường
 Chẳng biết được trí Phật
 Hàng bất-thối Bồ-Tát
 Số đông như hằng sa
 Một lòng chung suy cầu
 Cũng lại chẳng hiểu được.

 5. Lại bảo Xá-Lợi-Phất

 Pháp nhiệm mầu rất sâu
 Vô lậu khó nghĩ bàn
 Nay ta đã được đủ
 Chỉ ta biết tướng đó
 Mười phương Phật cũng vậy,
 Xá-Lợi-Phất phải biết
 Lời Phật nói không khác
 Với Pháp của Phật nói
 Nên sanh sức tin chắc
 Pháp của Phật lâu sau
 Cần phải nói chân thật
 Bảo các chúng Thanh-văn
 Cùng người cầu Duyên-giác
 Ta khiến cho thoát khổ
 Đến chứng được Niết-bàn
 Phật dùng sức phương tiện
 Dạy cho ba thừa giáo
 Chúng sanh nơi nơi chấp
 Dắt đó khiến ra khỏi.
 
6. Khi đó trong 
đại chúng có hàng Thanh-văn lậu tận A-la-hán, ngài A-Nhã Kiều-Trần-Như v.v... một nghìn hai trăm người và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam cùng cận-sự-nữ, hạng người phát tâmThanh-văn, Duyên-giác đều nghĩ rằng : "Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này : "Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh-văn cùng Duyên-giác không thể đến được."

 7. Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu? Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất biết lòng nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: Thưa Thế-Tôn! Nhân gì duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương-tiện thứ nhất nhiệm mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật? Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn chúng thảy đều có lòng nghi. Cúi xin đức Thế-Tôn bày nói việc đó. Cớ gì mà đức Thế-Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm mầu rất sâu khó hiểu? Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

8. Đấng Huệ-Nhật Đại-thánh

 Lâu mới nói pháp này,
 Tự nói pháp mình chứng
 Lực, vô-úy, tam-muội,
 Thiền-định, giải-thoát thảy
 Đều chẳng nghĩ bàn được.
 Pháp chứng nơi đạo tràng
 Không ai hỏi đến được,
 Ý con khó lường được
 Cũng không ai hay hỏi.
 Không hỏi mà tự nói
 Khen ngợi đạo mình làm
 Các đức Phật chứng được
 Trí huệ rất nhiệm mầu.
 Hàng vô-lậu La-hán
 Cùng người cầu Niết-bàn
 Nay đều sa lưới nghi
 Phật cớ chi nói thế?
 Hạng người cầu Duyên-giác.
 Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni,
 Các trời, rồng, quỉ, thần
 Và Càn-thát-bà thảy
 Ngó nhau mang lòng nghi
 Nhìn trông đấng Túc-Tôn,
 Việc đó là thế nào
 Xin Phật vị dạy cho?
 Trong các chúng Thanh-văn
 Phật nói con hạng nhất
 Nay con nơi trí mình
 Nghi lầm không rõ được
 Vì là pháp rốt ráo
 Vì là đạo Phật làm
 Con từ miệng Phật sanh
 Chắp tay nhìn trông chờ
 Xin ban tiếng nhiệm mầu
 Liền vì nói như thực
 Các trời, rồng, thần thảy
 Số đông như hằng sa
 Bồ-Tát cầu thành Phật
 Số nhiều có tám muôn
 Lại những muôn ức nước
 Vua Chuyển-Luân-vương đến
 Đều lòng kính chắp tay
 Muốn nghe đạo đầy đủ.

 9. Khi đó 
đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đờicác trời và người đều sẽ kinh sợ nghi-ngờ."

 10. Ngài Xá-Lợi-Phất lại 
bạch Phật rằng: "Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Vì sao? Trong hội đây có vô số trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ chúng-sinh đã từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí huệ sáng suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin".

 Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

 Đấng Pháp-Vương vô thượng
 Xin nói, nguyện đừng lo
 Vô lượng chúng hội đây
 Có người hay kính tin.
 
11. 
Đức Phật lại ngăn Xá-Lợi-Phất : "Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, A-tu-la đều sẽ nghi sợ, Tỳ-kheo tăng-thượng-mạn sẽ phải sa vào hầm lớn."

 Khi đó đức Thế-Tôn lại nói kệ rằng:

 Thôi thôi! Chẳng nên nói
 Pháp ta diệu khó nghĩ
 Những kẻ tăng-thượng-mạn
 Nghe ắt không kính tin.

 12. 
Lúc ấy ngài Xá-Lợi-Phất bạch Phật rằng : "Thưa Thế-Tôn ! Cúi xin Phật nói , cúi xin Phật nói. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm nghìn muôn ức. Đời đời đã từng theo Phật học hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an ổn nhiều điều lợi ích.

 Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

 Đấng vô thượng Lưỡng-túc
 Xin nói pháp đệ nhất
 Con là trưởng tử Phật
 Xin thương phân biệt nói.
 Vô lượng chúng hội đây
 Hay kính tin pháp này
 Đời đời Phật đã từng
 Giáo hóa chúng như thế
 Đều một lòng chắp tay
 Muốn muốn nghe lãnh lời Phật.
 Chúng con nghìn hai trăm
 Cùng hạng cầu Phật nọ
 Nguyện Phật vì chúng này
 Cúi xin phân biệt nói
 Chúng đây nghe pháp ấy
 Thời sanh lòng vui mừng.
 
13. Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ngài Xá-Lợi-Phất : "Ông đã 
ân cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân biệt giải-nói."

 14. Khi 
đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, cả thẩy năm nghìn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. Vì sao? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng-thượng-mạng, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà đã cho chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Đức Thế-Tôn yên lặng không ngăn cản.
 
15. Bấy giờ, 
Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất : "Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hạt chắc. Xá-Lợi-Phất! Những gã tăng-thượng-mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói."

 16. Ngài Xá-Lợi-Phất bạch rằng : "Vâng thưa Thế-Tôn con nguyện ưa muốn nghe". Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất : "Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúng thời mới nói, đó như hoa linh- thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.

 17. Xá-Lợi-Phất! Các 
đức Phật theo thời nghi nói pháp y -thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô số phương tiện các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp.

 Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời.

 Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra đời? Các đức Phật Thế-Tôn vì muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng-sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phậtmà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh chứng vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời.

 Xá-Lợi-Phất! Đó là các đức Phật do vì một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời".
 
18. 
Đức Phật bảo Xá-Lợi-Phất : "Các đức Phật Như-Lai chỉ giáo hóa Bồ-Tát, những điều làm ra thường vì một việc : chỉ đem tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh tỏ ngộ thôi"

 Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sanh nói pháp không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.

 Xá-Lợi-Phất! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.

 Xá-Lợi-Phất! Thuở quá khứ các đức Phật dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp. Vì pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí."

 Xá-Lợi-Phất! Thuở vị lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật thừa nên các chúng sanh đó theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí".

 Xá-Lợi-Phất! Hiện tại nay, trong vô lượng trăm nghìn muôn ức cõi Phật ở mười phương, các đức PhậtThế-Tôn nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sanh. Các đức Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật thừa, các chúng sanh ấy theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí".

 Xá-Lợi-Phất ! Các đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-Tát, vì muốn đem tri kiến Phật mà chỉ cho chúng sanh, vì muốn đem tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ, vì muốn làm cho chúng sanh chứng vào tri kiến Phậtvậy.

 Xá-Lợi-Phất ! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng sanh có những điều ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bản tánh kia dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ cùng sức phương tiện mà vì đó nói pháp.

 Xá-Lợi-Phất ! Như thế đều vì để chứng được một Phật thừa "nhứt-thiết chủng-trí."

 19. (không thấy đoạn số 19 trong kinh)


 20. Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước ở 
mười phương còn không có hai thừa hà huống có ba!

 21. Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: Kiếp trược, phiền-não- trược, chúng-sinh-trược, kiến-trược, mệnh-trược. Như thế, Xá-Lợi-Phất, lúc kiếp loạn trược chúng sinh nhơ nặng, bỏn sẻn, tham lam, ghét ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sứcphương tiện, nơi một Phật thừaphân biệt nói thành ba. Xá-Lợi-Phất! Nếu đệ tử ta tự cho mình là A-la-hán cùng Duyên-giác mà không nghe không biết việc của các đức Phật Như-Lai chỉ giáo hóa Bồ-Tát, người này chẳng phải là đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên-giác.

 Lại-nữa, Xá-Lợi-Phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đó tự cho mình đã được A-la-hán, là thân rốt sau rốt ráoNiết-bàn, bèn chẳng lại chí quyết cầu đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng-thượng-mạn. Vì sao? nếu có Tỳ-kheo thực chứng quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền không Phật. Vì sao? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rõ.

 Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ trì lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói không hư vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa thôi.

 Khi ấy đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

 22. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

 Mang lòng tăng-thượng-mạng
 Cận-sự-nam ngã mạn
 Cận-sự-nữ chẳng tin,
 Hàng bốn chúng như thế
 Số kia có năm nghìn
 Chẳng tự thấy lỗi mình
 Nơi giới có thiếu sót
 Tiếc giữ tội quấy mình
 Trí nhỏ đó đã ra,
 Bọn cám tấm trong chúng
 Oai đức Phật phải đi,
 Gã đó kém phước đức
 Chẳng kham lãnh pháp này,
 Chúng nay không cành lá
 Chỉ có những hột chắc

 23. Xá-Lợi-Phất khéo nghe!

 Pháp của các Phật được
 Vô lượng sức phương tiện
 Mà vì chúng sanh nói.
 Tâm của chúng sanh nghĩ
 Các món đạo ra làm
 Bao nhiêu những tánh dục
 Nghiệp lành dữ đời trước
 Phật biết hết thế rồi
 Dùng các duyên thí dụ
 Lời lẽ sức phương tiện
 Khiến tất cả vui mừng.
 Hoặc là nói Thế kinh
 Cô khởi cùng Bổn-sự.
 Bổn-sanh, Vị-tằng-hữu
 Cũng nói những nhân duyên
 Thí dụ và Trùng tụng
 Luận nghị cộng chín kinh.
 Căn độn ưa pháp nhỏ.
 Tham chấp nơi sanh tử
 Nơi vô lượng đức Phật
 Chẳng tu đạo sâu mầu
 Bị các khổ não loạn
 Vì đó nói Niết-bàn.
 Ta bày phương tiện đó
 Khiến đều vào huệ Phật,
 Chưa từng nói các ông
 Sẽ được thành Phật đạo
 Sở dĩ chưa từng nói
 Vì giờ nói chưa đến,
 Nay chính là đến giờ
 Quyết định nói Đại-thừa.

 24. Chín bộ pháp của ta

 Thuận theo chúng sanh nói
 Vào Đại-thừa làm gốc
 Nên mới nói kinh này.
 Có Phật tử tâm tịnh
 Êm dịu cũng căn lợi,
 Nơi vô lượng các Phật
 Mà tu đạo sâu mầu,
 Vì hàng Phật tử này
 Nói kinh Đại-thừa đây.
 Ta ghi cho người đó
 Đời sau thành Phật đạo
 Bởi thâm tâm niệm Phật
 Tu trì tịnh giới vậy
 Hạng này nghe thành Phật
 Rất mừng đầy khắp mình,
 Phật biết tâm của kia.
 Nên vì nói Đại-thừa.
 Thanh-văn hoặc Bồ-Tát,
 Nghe ta nói pháp ra
 Nhẫn đến một bài kệ
 Đều thành Phật không nghi.
 
25. Trong 
cõi Phật mười phương
 Chỉ có một thừa pháp
 Không hai cũng không ba
 Trừ Phật phương tiện nói
 Chỉ dùng danh tự giả
 Dẫn dắt các chúng sanh
 Vì nói trí huệ Phật.
 Các Phật ra nơi đời
 Chỉ một việc này thực
 Hai thứ chẳng phải chơn.
 Trọn chẳng đem tiểu thừa
 Mà tế độ chúng sanh,
 Phật tự trụ Đại-thừa
 Như pháp của mình được
 Định, huệ, lực trang nghiêm
 Dùng đây độ chúng sanh.
 Tự chứng đạo vô thượng
 Pháp bình-đẳng Đại-thừa
 Nếu dùng tiểu thừa độ
 Nhẫn đến nơi một người
 Thời ta đọa sân tham
 Việc ấy tất không được,
 Nếu người tin về Phật
 Như-Lai chẳng dối gạt
 Cũng không lòng tham ghen
 Dứt ác trong các pháp
 Nên Phật ở mười phương
 Mà riêng không chỗ sợ.
 Ta dùng tướng trang nghiêm
 Ánh sáng soi trong đời
 Đấng vô lượng chúng trọng
 Vì nói thực tướng ấn

 26. Xá-Lợi-Phất! nên biết

 Ta vốn lập thệ nguyện
 Muốn cho tất cả chúng
 Bằng như ta không khác,
 Như ta xưa đã nguyện
 Nay đã đầy đủ rồi
 Độ tất cả chúng sanh
 Đều khiến vào Phật đạo
 Nếu ta gặp chúng sanh
 Dùng Phật đạo dạy cả
 Kẻ vô trí rối sai
 Mê lầm không nhận lời.
 Ta rõ chúng sanh đó
 Chưa từng tu cội lành
 Chấp chặt nơi ngũ dục
 Vì si ái sinh khổ,
 Bởi nhân duyên các dục.
 Sanh vào ba đường dữ
 Xoay lăn trong sáu nẻo
 Chịu đủ những khổ độc
 Thân mọn thọ bào thai
 Đời đời tăng trưởng luôn
 Người đức mỏng ít phước
 Các sự khổ bức ngặt
 Vào rừng rậm tà kiến
 Hoặc chấp cóchấp không
 Nương gá các chấp này
 Đầy đủ sáu mươi hai
 Chấp chặt pháp hư vọng
 Bền nhận không bỏ được
 Ngã mạn tự khoe cao
 Dua nịnh lòng không thực
 Trong nghìn muôn ức kiếp
 Chẳng nghe danh tự Phật
 Cũng chẳng nghe chánh pháp
 Người như thế khó độ.
 
27. Cho nên Xá-Lợi-Phất!

 Ta vì bày phương tiện
 Nói các đạo dứt khổ
 Chỉ cho đó Niết-bàn
 Ta dầu nói Niết-bàn
 Cũng chẳng phải thật diệt,
 Các pháp từ bổn lai
 Tướng thường tự vắng lặng
 Phật tử hành đạo rồi
 Đời sau được thành Phật
 Ta có sức phương tiện
 Mở bày khắp ba thừa.
 Tất cả các Thế-Tôn
 Đều nói đạo nhất thừa
 Nay trong đại chúng này
 Đều nên trừ nghi lầm
 Lời Phật nói không khác
 Chỉ một, không hai thừa.

 28. 
Vô số kiếp đã qua
 Vô lượng Phật diệt độ
 Trăm nghìn muôn ức Phật
 Số nhiều không lường được.
 Các Thế-Tôn như thế
 Các món duyên thí dụ
 Vô số ức phương tiện
 Diễn nói các pháp tướng,
 Các đức Thế-Tôn đó
 Đều nói pháp nhất thừa
 Độ vô lượng chúng sanh
 Khiến vào nơi Phật đạo
 Lại các đại-Thánh-chúa
 Biết tất cả thế gian
 Trời người loài quần sanh
 Thâm tâm chỗ ưa muốn
 Bèn dùng phương tiện khác
 Giúp bày nghĩa đệ nhất.

 29. Nếu có loài 
chúng sanh
 Gặp các Phật quá khứ
 Hoặc nghe pháp bố thí
 Hoặc trì giới nhẫn nhục
 Tinh tấn, thiền, trí thảy
 Các món tu phước huệ,
 Những người như thế đó
 Đều đã thành Phật đạo
 Sau các Phật diệt độ
 Nếu người lòng lành dịu
 Các chúng sanh như thế
 Đều đã thành Phật đạo
 
30. Các 
Phật diệt độ rồi
 Người cúng dường xá-lợi
 Dựng muôn ức thứ tháp
 Vàng, bạc và pha-lê
 Xa-cừ cùng mã-não
 Ngọc mai khôi, lưu ly
 Thanh tịnh rộng nghiêm sức,
 Trau dồi nơi các tháp,
 Hoặc có dựng miếu đá
 Chiên-đàn và trầm-thủy
 Gỗ mật cùng gỗ khác
 Gạch ngói bùn đất thảy,
 Hoặc ở trong đồng trống
 Chứa đất thành miếu Phật
 Nhẫn đến đồng tử giỡn
 Nhóm cát thành tháp Phật,
 Những hạng người như thế
 Đều đã thành Phật đạo.

 31. Nếu như người vì Phật

 Xây dựng các hình-tượng
 Chạm trổ thành các tướng
 Đều đã thành Phật đạo.
 Hoặc dùng bảy báu làm
 Thau, đồng bạch, đồng đỏ
 Chất nhôm cùng chì kẽm
 Sắt, gỗ cùng với bùn
 Hoặc dùng keo, sơn, vải
 Nghiêm sức làm tượng Phật
 Những người như thế đó
 Đều đã thành Phật đạo
 Vẽ vời làm tượng Phật
 Trăm tướng phước trang nghiêm
 Tự làm hoặc bảo người
 Đều đã thành Phật đạo.
 Nhẫn đến đồng tử giỡn
 Hoặc cỏ cây và bút
 Hoặc lấy móng tay mình
 Mà vẽ làm tượng Phật
 Những hạng người như thế
 Lần lần chứa công-đức
 Đầy đủ tâm đại bi
 Đều đã thành Phật đạo
 Chỉ dạy các Bồ-Tát
 Độ thoát vô lượng chúng.
 
32. Nếu người nơi 
tháp miếu
 Tượng báu và tượng vẽ
 Dùng hoa, hương, phan, lọng
 Lồng kính mà cúng dường
 Hoặc khiến người trổi nhạc
 Đánh trống, thổi sừng ốc
 Tiêu địch, cầm, không-hầu
 Tỳ-bà, chụp-chả đồng
 Các tiếng hay như thế
 Đem dùng cúng dường hết
 Hoặc người lòng vui mừng
 Ca ngâm khen đức Phật
 Nhẫn đến một tiếng nhỏ
 Đều đã thành Phật đạo

 33. Nếu người lòng 
tán loạn
 Nhẫn đến dùng một hoa
 Cúng dường nơi tượng vẽ
 Lần thấy các đức Phật
 Hoặc có người lễ lạy
 Hoặc lại chỉ chắp tay
 Nhẫn đến giơ một tay
 Hoặc lại hơi cúi đầu
 Dùng đây cúng dường tượng
 Lần thấy vô lượng Phật
 Tự thành đạo vô thượng
 Rộng độ chúng vô số
 Vào Vô dư Niết-bàn
 Như củi hết lửa tắt.
 Nếu người tâm tán loạn
 Bước vào trong tháp chùa
 Chỉ niệm Nam-mô Phật
 Đều đã thành Phật đạo
 Nơi các Phật quá khứ
 Tại thế, hoặc diệt độ,
 Có người nghe pháp này
 Đều đã thành Phật đạo
 
34. Các Thế-Tôn 
vị lai
 Số nhiều không thể lường
 Các đức Như-Lai đó
 Cùng phương tiện nói pháp.
 Tất cả các Như-Lai
 Dùng vô lượng phương tiện
 Độ thoát các chúng sanh
 Vào trí vô lậu Phật,
 Nếu có người nghe pháp
 Không ai chẳng thành Phật.
 Các Phật vốn thệ nguyện
 Ta tu hành Phật đạo
 Khắp muốn cho chúng sanh
 Cũng đồng được đạo này.
 Các Phật đời vị lai
 Dầu nói trăm nghìn ức
 Vô số các pháp môn
 Kỳ thực vì nhất thừa.
 Các Phật Lưỡng-Túc-tôn
 Biết pháp thường không tánh
 Giống Phật theo duyên sanh
 Cho nên nói nhứt thừa.
 Pháp đó trụ ngôi pháp
 Tướng thế gian thường còn
 Nơi đạo tràng biết rồi
 Đức Phật phương tiện nói.
 Hiện tại mười phương Phật
 Của trời người cúng dường
 Số nhiều như hằng sa
 Hiện ra nơi thế gian
 Vì an ổn chúng sanh
 Cũng nói pháp như thế.
 Biết vắng bặt thứ nhứt
 Bởi dùng sức phương tiện
 Dầu bày các món đạo
 Kỳ thực vì Phật thừa
 Biết các hạnh chúng sanh
 Thâm tâm nó nghĩ nhớ
 Nghiệp quen từ quá khứ
 Tánh dục, sức tinh tấn
 Và các căn lợi độn
 Dùng các món nhân duyên
 Thí dụ cùng lời lẽ
 Tùy cơ phương tiện nói.
 
35. Ta nay cũng như vậy

 Vì an ổn chúng sanh
 Dùng các món pháp môn
 Rao bày nơi Phật đạo
 Ta dùng sức trí huệ
 Rõ tính dục chúng sanh
 Phương tiện nói các pháp
 Đều khiến được vui mừng.
 Xá-Lợi-Phất nên biết!
 Ta dùng mắt Phật xem
 Thấy sáu đường chúng sanh
 Nghèo cùng không phước huệ
 Vào đường hiểm sanh tử
 Khổ nối luôn không dứt
 Sâu tham nơi ngũ dục
 Như trâu "mao" mến đuôi
 Do tham ái tự che
 Đui mù không thấy biết
 Chẳng cầu Phật thế lớn
 Cùng pháp dứt sự khổ
 Sâu vào các tà kiến
 Lấy khổ muốn bỏ khổ
 Phật vì chúng sanh này
 Mà sanh lòng đại bi

 36. Xưa, tu ngồi 
đạo tràng
 Xem cây cùng kinh hành
 Suy nghĩ việc như vầy:
 Trí huệ của ta được
 Vi diệu rất thứ nhứt
 Chúng sanh các căn chậm
 Tham vui si làm mù
 Các hạng người như thế
 Làm sao mà độ được?
 Bấy giờ các Phạm-vương
 Cùng các trời Đế-Thích
 Bốn Thiên-vương hộ đời
 Và trời Đại-Tự-Tại
 Cùng các thiên chúng khác
 Trăm nghìn ức quyến thuộc
 Chắp tay cung kính lễ
 Thỉnh ta chuyển pháp-luân.
 Ta liền tự suy nghĩ
 Nếu chỉ khen Phật thừa
 Chúng sanh chìm nơi khổ
 Không thể tin pháp đó
 Do phá pháp không tin
 Rớt trong ba đường dữ
 Ta thà không nói pháp
 Mau vào cõi Niết-bàn
 Liền nhớ Phật quá khứ
 Thực hành sức phương tiện
 Ta nay chứng được đạo
 Cũng nên nói ba thừa.

 37. Lúc ta nghĩ thế đó

 Mười phương Phật đều hiện
 Tiếng Phạm an-ủi ta
 Hay thay! Đức Thích-Ca
 Bậc Đạo-Sư thứ nhứt
 Được pháp vô thượng ấy
 Tùy theo tất cả Phật
 Mà dùng sức phương tiện
 Chúng ta cũng đều được
 Pháp tối diệu thứ nhứt
 Vì các loại chúng sanh
 Phân biệt nói ba thừa.
 Trí kém ưa pháp nhỏ
 Chẳng tự tin thành Phật
 Cho nên dùng phương tiện
 Phân biệt nói các quả
 Dầu lại nói ba thừa
 Chỉ vì dạy Bồ-Tát.
 
38. Xá-Lợi-Phất nên biết!

 Ta nghe các đức Phật
 Tiếng nhiệm mầu rất sạch
 Xưng: Nam-mô chư Phật! 
 Ta lại nghĩ thế này
 Ta ra đời trược ác
 Như các Phật đã nói
 Ta cũng thuận làm theo
 Suy nghĩ việc đó rồi
 Liền đến thành Ba-Nại.
 Các pháp tướng tịch diệt
 Không thể dùng lời bày
 Bèn dùng sức phương tiện
 Vì năm Tỳ-kheo nói.
 Đó gọi chuyển pháp luân
 Bèn có tiếng Niết-bàn
 Cùng với A-la-hán
 Tên pháp, tăng sai khác.
 Từ kiếp xa nhẫn lại
 Khen bày Pháp Niết-bàn
 Dứt hẳn khổ sống chết
 Ta thường nói như thế
 
39. Xá-Lợi-Phất phải biết

 Ta thấy các Phật tử
 Chí quyết cầu Phật đạo
 Vô lượng nghìn muôn ức
 Đều dùng lòng cung kính
 Đồng đi đến chỗ Phật
 Từng đã theo các Phật
 Nghe nói pháp phương tiện
 Ta liền nghĩ thế này
 Sở dĩ Phật ra đời
 Để vì nói Phật huệ
 Nay chính đã đúng giờ.
 
40. Xá-Lợi-Phất phải biết!

 Người căn chậm trí nhỏ
 Kẻ chấp tướng kiêu mạn
 Chẳng thể tin pháp này
 Nay ta vui vô-úy
 Ở trong hàng Bồ-Tát
 Chính bỏ ngay phương tiện
 Chỉ nói đạo vô thượng.
 Bồ-Tát nghe pháp đó
 Đều đã trừ lưới nghi
 Nghìn hai trăm La-hán
 Cũng đều sẽ thành Phật
 Như nghi thức nói pháp
 Của các Phật ba đời
 Ta nay cũng như vậy
 Nói pháp không phân biệt
 Các đức Phật ra đời
 Lâu xa khó gặp gỡ
 Chính sử hiện ra đời
 Nói pháp này khó hơn
 Vô lượng vô số kiếp
 Nghe pháp này cũng khó,
 Hay nghe được pháp này
 Người đó cũng lại khó
 Thí như hoa linh-thoại
 Tất cả đều ưa mến
 Ít có trong trời, người
 Lâu lâu một lần trổ.
 
41. Người 
nghe pháp mừng khen
 Nhẫn đến nói một lời
 Thời là đã cúng dường
 Tất cả Phật ba đời
 Người đó rất ít có
 Hơn cả hoa Ưu-đàm.
 Các ông chớ có nghi
 Ta là vua các pháp
 Khắp bảo các đại chúng
 Chỉ dùng đạo nhứt thừa
 Dạy bảo các Bồ-Tát
 Không Thanh-văn đệ tử

 42. Xá-Lợi-Phất các ông!

Thanh-văn và Bồ-Tát
Phải biết pháp mầu này
Bí yếu của các Phật
Bởi đời ác năm trược
Chỉ tham ưa các dục
Những chúng sanh như thế
Trọn không cầu Phật đạo
Người ác đời sẽ tới
Nghe Phật nói nhứt thừa
Mê lầm không tin nhận
Phá pháp đọa đường dữ
Người tàm quí trong sạch
Quyết chí cầu Phật đạo
Nên vì bọn người ấy
Rộng khen đạo nhất thừa.
Xá-Lợi-Phất nên biết
Pháp các Phật như thế
Dùng muôn ức phương tiện
Tùy thời nghi nói pháp
Người chẳng học tập tu
Không hiểu được pháp này
Các ông đã biết rõ
Phật là thầy trong đời
Việc phương-tiện tùy nghi
Không còn lại nghi lầm
Lòng sinh rất vui mừng
Tự biết sẽ thành Phật.
 
KINH DIỆU- PHÁP LIÊN- HOA
Quyển Thứ Nhất


Một sáng chiếu phương đông, thể diệu toàn bày, chẳng phải chỗ suy lường mà suy lường được, thầm hiểu ở trong lòng, phương tiện truyền bày một đạo nhả hương trời.

NAM-MÔ PHÁP-HOA HỘI-THƯỢNG PHẬT BỔ-TÁT (3 lần)

Thế-Tôn hiện điềm tốt, Di-Lặc nghi tướng lành, Văn-Thù vì chúng rộng phô bày: Phật xưa phóng hào-quang. Ba phen mời đấng Pháp Vương vì nói hương Diệu-Liên.

NAM-MÔ QUÁ-KHỨ NHẬT-NGUYỆT ĐĂNG-MINH PHẬT (3 lần)

THÍCH NGHĨA
(1) KINH: Pháp thườngmười phương ba đời các đức Phật đều nói như vậy. Nói đủ là "Khế Kinh" nghĩa là "pháp thường khế hiệp chân lý cùng khế hiệp căn cơ chúng sanh". DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA: Pháp mầu khó nghĩ lường, thắng hơn tất cả pháp. Kinh pháp nầy là bật nhất trong kinh pháp khác của Phật nói, dụ như hoa sen, vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc biệt:
Có hoa là có gương: nhân quả đồng thời.

 1. Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho.
 2. Cọng hoa từ gốc tách riêng nhưng không chung cành với lá.
 3. Ong và bướm không bu đậu.
 4. Không bị người dùng làm trang điểm (xưa đàn bà Ấn-Độ quen dùng hoa kết thành tràng để đeo đội v.v...)

(2) Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.

(3) Các điều vọng lầm hay làm lọt mất công đức lành.

(4) Tự mình đã được thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi.

(5) BA CÕI: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô-sắc.
(6) Từ quả A-na-hàm trở xuống chưa được giải thoát còn phải học tập nên gọi "HỮU-HỌC".Quả A-la-hán đã được giải thoát, về trong Tiểu-thừa-pháp, thì không còn phải học nữa nên gọi "VÔ-HỌC".
(7) Quả chứng của Phật.

(8) TỒNG TRÌ: Gồm nhiếp các Pháp.

(9) Tài biện luận ưa giảng nói pháp.

(10) Chỗ rốt ráotrọn vẹn, nên xong hoàn toàn.

(11) Tên của vị vua 33 nước trời Đao-Lợi ở trên đỉnh núi Tu-Di.

(12) Ba thứ tiếng vang dội và 3 thứ rung động của hình sắc.

(13) (16) Các loài thần hầu hạ cõi Đao-Lợi.

(14) Thần phi-thiên: có phước như trời mà đức kém hơn trời.

(15) Chim cánh vàng (kim-sí-điểu)

(17) Thần rắn.

(18) 1) Trời; 2) Người; 3) A-tu-la; 4) Thú; 5) Quỉ; 6) Địa ngục.

(19) Phật là vua pháp (Pháp-vương). Bồ-Tát cũng như con của Phật nên là: Pháp-vương-tử.
(20) Người thọ tam quy ngũ-giới tu tại-gia gần gũi hộ thờ Tam-Bảo nên gọi cận-sự, đàn ông là Nam, đàn bà là nữ, ta quen gọi là "cư-sĩ".
(21) Vô số (một số lớn). Kiếp có: Tiểu-kiếp, trung-kiếp, đại-kiếp.Một tiểu-kiếp có 16.798.000 năm.Một trung-kiếp có 20 tiểu-kiếp.Một đại-kiếp có 4 trung-kiếp: Thành, Trụ, Hoại, Không.
(22) 1) Khổ-đế; 2) Tập-đế; 3) Diệt-đế; 4) Đạo-đế.
(23) 1) Vô-minh- 2) Hành- 3) Thức- 4) Danh sắc- 5) Lục nhập- 6) Xúc- 7) Thọ- 8) Aùi- 9) Thủ- 10) Hữu- 11) Sanh- 12) Lão-tử. Mười hai món này làm nhân duyên lẫn nhau.

(24) Cũng gọi là 6 độ: 1) Bố-thí-độ, 2) Trì-giới-độ, 3) Nhẫn-nhục-độ, 4) Tinh-tấn-độ, 5) Thiền-định-độ, 6) Trí-huệ- độ.
(25) Trí của Phật.
(26) 1) Đông-thắng-thần-châu. 2) Nam-thiệm-bộ-châu (quả địa-cầu), 3) Tây-ngưu-hóa-châu, 4) Bắc-câu-lô-châu.
 
(27) Thọ-ký:Trao cho lời ghi chắc về sau, bao nhiêu năm cõi nào sẽ thành Phật hiệu là v.v...

(28) Sông Hằng một con sông lớn xứ Ấn-Độ, trong sông và hai bờ có cát rất mịn, trong kinh thường dùng số cát ấy để chỉ một số đông nhiều.
(29) Ông thầy dắt dẫn.
(30) Thanh-văn thừa, Duyên-giác thừa, Phật-thừa.

(31) Phương chước hay phương pháp tiện lợi dễ dàng.
 
 
Sự tích tả

KINH PHÁP HOA

ÔNG NGHIÊM CUNG

Nước Tàu, triều nhà Trần niên hiệu Đại-Kiến năm đầu, ở xứ Dương-Châu có ông Nghiêm-Cung tả kinhPháp-Hoa để phân phát cho người trì tụng.

Lúc đó có thần ở miếu Cung-Đình-Hồ mách mộng cho khách buôn đem hết của trong miếu đưa sang trao cho ông Cung để chi phí về việc tả kinh.

Lại một hôm ông Cung mang tiền ra phố mua giấy viết lỡ thiếu 3.000 đồng điếu, bỗng thấy từ trong chợ đi ra một người cầm 3.000 đồng điếu trao cho ông Cung mà nói: "Giúp ông mua giấy". Nói xong biến mất.

Rốt đời Tùy, giặc cướp đến Giang-Đô đều dặn nhau không nên phạm đến xóm của ông Nghiêm Pháp-Hoa (Nghiêm-Cung). Nhờ đó mà cả xóm an-lành.

Đến cuối đời Đường, nhà họ Nghiêm vẫn nối nhau tả kinh không thôi.

Vậy thì tả kinh, hay in kinh công đức lớn biết dường nào, không nói đến phước báu tốt đẹp ở nhiều đời sau, mà ngay trong hiện tại cũng không thể lường được, chẳng những là mình khỏi khổ ngay mà ngay mọi người ở gần cũng được nhờ, cả Thần Thánh cũng thường theo hộ trợ như truyện ông Nghiêm-Cung đây vậy.