CÂU XÁ TÔNG
(Hay Hữu Tông)
I. DUYÊN KHỞI LẬP TÔNG
Tông này thuộc về Tiểu thừa, phát xuất từ bộ luận Câu Xá của ngài Thế Thân. Bộ luận Câu Xá lại dựa theo ý nghĩa của bộ kinh Đại Tỳ Bà Sa (Mahavibhasacastra) mà thành lập. Bộ luận Câu Xá được Ngài Trần Chân Đế dịch và truyền sang Tàu rất sớm, nhưng về sau bị thất truyền. Trong giai đoạn đầu nầy, Câu Xá tông chưa thành một tông phái riêng biệt ở Trung Hoa. Chỉ đến khi ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh ở Ấn Độ trở về, đem dịch lại bộ luận Câu Xá và đệ tử của Ngài là Đại sư Phổ Quang dựa theo bộ luận nói trên mà làm ra bộ “Câu Xá thuật ký”, và ngài Pháp Bảo làm bộ “Câu Xá luận sớ” thì Câu Xá tông mới thành một tông và được thịnh hành ở Trung Hoa. Nhưng hết đời Đường (từ đầu thế kỷ thứ VII đến cuối thế kỷ thứ IX) thì tông này lại dần dần suy tàn và nhường địa vị quan trọng cho những tông phái Đại thừa khác, thích hợp với triết học và tâm lý của người Trung Hoa hơn.
II. TÔNG CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN
1. Tông chỉ: Tông này chủ trương “ngã không pháp hữu”, nghĩa là không có thật ngã nhưng có thật pháp.
Đối với các tông giáo khác thì chủ trương có một cái thật ngã, chủ tế thường nhất, một cái linh hồn trường tồn bất biến, mặc dù mọi sự vật đổi thay, sống hay chết. Theo Câu Xá tông thì một cái ngã như thế không thể có được, vì mọi sự vật trong vũ trụ, kể cả con người đều là giả hợp mà thành, chứ không có một vật gì đồng nhất và bất biến. Đây cũng là chủ trương chung của các giáo phái khác trong Phật giáo. Điểm sai khác giữa Câu Xá tông với các tông phái khác là: Câu Xá tông thì chủ trương Pháp hữu, trong khi các giáo phái khác thì bảo rằng Pháp không. Pháp hữu, nghĩa là bản thể thật tại của các pháp, hay nói một cách dễ hiểu hơn, nguyên liệu sinh ra các sự vật trong vũ trụ, là thường có, là có thật. Thí dụ: Con người không có thật ngã, nhưng những nguyên liệu làm ra con người, như ngũ uẩn, tứ đại là thật có.
2. Vũ trụ quan: Câu Xá tông phân biệt vũ trụ vạn hữu ra làm hữu vi pháp và vô vi pháp. Hữu vi pháp chỉ về hiện tượng trong hiện tượng giới, có sinh diệt, chuyển biến. Vô vi pháp chỉ về cảnh giới thường trụ, không sinh diệt, chuyển biến, cũng tức là chỉ về lý thể.
Hữu vi pháp gồm có 72 món, và vô vi pháp gồm có 3 món, cộng tất cả là 75 món, hay 75 pháp.
ĐỒ BIỂU VỀ 75 PHÁP
Trong phạm vi nhỏ hẹp của tập sách, chúng tôi không thể đi sâu để giải thích từng pháp một được. Tuy thế để có một ý niệm về các loại pháp ấy, chúng tôi xin sơ lược đại khái sau đây:
Sắc pháp: Phàm cái có thể hư nát và có tính cách chướng ngại đều thuộc về sắc pháp. Trong 11 món thuộc về sắc pháp, gồm có năm căn và năm cảnh, thì độc giả cũng đã biết rồi, không cần phải giải nữa; còn món thứ 11 là vô biểu sắc cần phải giải thích. Vô biểu sắc là cái sắc pháp không biểu hiện ra ngoài (pháp trần), nó là đối tượng của ý căn.
Tâm pháp: Cũng gọi là Tâm vương, vì nó có năng lực chủ động như ông vua có quyền chủ trương trong một nước. Tâm vương có ba tên: Tâm, ý và thức. Theo Câu Xá luận thì: “nhóm góp các tập quán mà khởi ra gọi là tâm; nghĩ ngợi gọi là ý; phân biệt gọi là thức”.
Tâm sở pháp: Là cái pháp sở hữu phụ thuộc của tâm vương, như các ông quan phụ thuộc dưới quyền sai sử của ông vua, hay các nhân viên phụ thuộc dưới sự điều khiển của ông chủ.
Bất tương ưng hành pháp: Có thể gọi tắt là cái pháp bất tương ưng, nghĩa là các pháp không hẳn thuộc về sắc, mà cũng không hẳn thuộc về tâm, nhưng là kết quả của sự tiếp xúc giữa tâm và sắc. Thí dụ như “sự được” là một pháp bất tương ưng. Khi ta được một cái gì, “sự được” ấy không thuộc về sắc pháp, cũng không thuộc về tâm pháp. “Cái mà ta được” là sắc pháp, “cái nỗi vui mừng” khi được là tâm pháp, còn “sự được” không thể liệt vào sắc pháp hay tâm pháp được, vì thế cho nên gọi là bất tương ưng hành pháp.
Vô vi pháp: Nghĩa là những pháp không sinh diệt, chuyển biến, vượt ra ngoài sự đối đãi.Vô vi gồm có ba pháp là: Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi và Hư không vô vi.
Bảy mươi lăm pháp này bao gồm tất cả sự vật trong vũ trụ.
Sự vật trong vũ trụ chia ra làm hai loại lớn là: hữu tình thế gian và khí thế gian.
- Hữu tình thế gian tức là toàn thể chúng sinh, có sự sống.
- Khí thế gian tức là hoàn cảnh mà chúng sinh nương vào để sống như đất cát, núi sông, nhà cửa, v.v...
Xét về phương diện thời gian, thì vũ trụ là vô thủy vô chung, nghĩa là không có lúc bắt đầu và cũng không có lúc chung cục, mà chỉ có sự thay đổi, biến chuyển thôi. Trong vũ trụ có hằng hà sa thế giới, thế giới này thành, thì thế giới kia hoại, đắp đổi cho nhau. Tuy thế, riêng mỗi thế giới, từ khi sinh thành cho đến khi tiêu diệt, phải qua bốn giai đoạn (thành, trụ, hoại, không) gồm một đại kiếp, tức là một ngàn hai trăm tám chục triệu năm (1.280.000.000).
Xét về phương diện không gian, thì vũ trụ rộng lớn không thể tưởng tượng được. Trước tiên đơn vị nhỏ nhất của vũ trụ là thế giới (như thế giới nhỏ mà chúng ta đang ở đây).
Họp một ngàn thế giới mới thành được một tiểu thiên thế giới; họp một ngàn tiểu thiên thế giới mới thành một trung thiên thế giới; họp một ngàn trung thiên thế giới mới thành một đại thiên thế giới. Như thế một đại thiên thế giới gồm (1.000x1.000x1.000) một ngàn triệu thế giới nhỏ (như thế giới chúng ta đang ở đây). Nhưng trong vũ trụ không phải chỉ có một đại thiên thế giới mà có vô lượng vô số đại thiên thế giới; cho nên trong kinh thường nói là: thập phương vi trần thế giới (mười phương thế giới nhiều như cát bụi) hay thập phương hằng hà sa thế giới (mười phương thế giới nhiều như cát sông Hằng).
Xét về phương diện phẩm chất thì vũ trụ chia làm ba từng bậc cao thấp khác nhau, cũng gọi là tam giới, hay ba cõi là: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
Dục giới là cõi của loài hữu tình chưa xa lìa được dâm dục và thực dục. Trong dục giới có sáu loại chúng sinh là thiên, nhân, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.
Sắc giới là cõi của loài hữu tình có hình sắc tốt đẹp, đã rời bỏ được dâm dục và thực dục. Cõi này có bốn bậc là: Ly sinh hỷ lạc địa, Định sinh hỷ dục địa, Ly hỷ diệu lạc địa và Xả niệm thanh tịnh địa.
Vô sắc giới là cõi không có hình sắc. Các loài hữu tình sinh trong cõi này chỉ có tâm thức mà thôi. Cõi này cũng chia làm bốn từng bậc cao thấp, thông thường gọi là Tứ không thiên: Không vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
3. Nhân sinh quan: Chúng sinh nói chung, và con người nói riêng, do đâu mà có? Và đời sống của chúng sinh có giá trị như thế nào?
a) Theo Câu Xá tông, thì chúng sinh sở dĩ bị xoay chuyển trong vòng sinh tử luân hồi, là do “nghiệp cảm duyên khởi”, nghĩa là do mê hoặc mà tạo nghiệp, do tạo nghiệp làm nhân mà cảm thọ các quả báo.
Thế nào gọi là hoặc? Hoặc nghĩa là mê mờ, không sáng suốt, không biết đâu là phải, đâu là trái tức là vô minh, mê vọng. Hoặc có hai loại: bổn hoặc và tùy hoặc. Bổn hoặc là sự mê lầm cội gốc, cũng gọi là căn bản phiền não, như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Tùy hoặc là những mê lầm dựa theo bổn hoặc mà phát sinh, cũng gọi là tùy phiền não.
Trong sáu bổn hoặc nói trên, thì năm hoặc đầu: tham, sân, si, mạn, nghi, vì tính chất chậm lụt, ăn sâu gốc rễ trong thâm tâm chúng ta, rất khó dứt trừ, nên gọi là ngũ độn sử (sử là sai sử, xúi sử; những hoặc này sai khiến một cách tiềm tàng, sâu kín loài hữu tình làm cho chúng sinh cứ luẩn quẩn trong chỗ mê lầm nên gọi là độn sử).
Còn hoặc thứ sáu là ác kiến, vì tính chất nó lanh lẹ, không ăn sâu gốc rễ trong thâm tâm và dễ dứt trừ, nên gọi là lợi sử. Ác kiến hay lợi sử gồm có năm thứ là: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, và Giới cấm thủ.
Thân kiến: là chấp một cách sai lầm rằng cái thân do ngũ uẩn giả hiệp này là có thật ngã.
Biên kiến: là chấp sai lầm rằng cái thân này chết rồi thì tiêu diệt hẳn, không còn gì cả (đoạn kiến) hay trái lại, chấp cái thân này chết rồi, linh hồn vẫn còn mãi mãi (thường kiến). Những sự chấp ấy làm mất hẳn lý trung đạo, nên gọi là biên kiến.
Tà kiến: là chấp những đạo lý mơ hồ tà bậy và bài bác những lý nhân quả chân chính.
Kiến thủ: là chấp chặt kiến giải sai lầm của mình, mà không chịu theo đời các bậc hiển thánh.
Giới cấm thủ: là giữ giới sai lầm như những giới khổ hạnh của ngoại đạo v.v...
Do những bổn hoặc và ác kiến nói trên sai sử, chúng sinh tạo ra các nghiệp, làm nhân quả cho nhau và khiến cho chúng sinh phải xoay vần mãi trong sinh tử luân hồi. Nghiệp có ba thứ: ý nghiệp, tức là sự suy nghĩ, hành động của ý niệm; ngữ nghiệp, tức là sự nói năng; thân nghiệp, tức là những hành động về thân xác.
Nghiệp có ba tính là: lành, dữ và vô ký (nghĩa là trung bình, không lành, không dữ). Nghiệp lành thì có quả báo lành, nghiệp dữ thì có quả báo dữ. Còn nghiệp vô ký thì có quả báo không lành không dữ.
Nghiệp lành, cũng như nghiệp dữ, đều có mười thứ:
Mười nghiệp dữ là: giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối gạt, nói thêu dệt, nói chia rẽ, nói độc ác, tham lam, giận dữ, si mê.
Mười nghiệp lành là: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối gạt, không nói thêu dệt, không nói chia rẽ, không nói độc ác, không tham lam, không giận dữ, không si mê.
Quả báo của mười nghiệp lành và mười nghiệp dữ có mau và chậm, nghĩa là có khi xảy ra trong một đời, có khi hai ba đời sau mới thọ quả báo.
Khi thời kỳ cảm quả chịu báo đã xác định, thì gọi là định nghiệp. Trái lại, thì gọi là bất định nghiệp. Bất định nghiệp có hai thứ: một là quả báo đã định mà thời kỳ chịu quả báo chưa định; hai là cả quả báo và thời kỳ chịu quả báo đều chưa định.
b) Trên đây là nói lý do vì sao có sự hiện diện của chúng sinh trong thế giới này. Dưới đây, chúng tôi sẽ nói đến giá trị của sự hiện diện ấy theo quan niệm của Câu Xá tông, tức cũng là quan niệm của Tiểu thừa Phật giáo.
Quan niệm ấy, không xa lạ gì đối với chúng ta. Đó là cõi đời là một biển khổ, trong ấy, chúng sinh đang lặn hụp, trôi lăn, sống chết. Con người khổ vì sinh, lão, bệnh, tử. Con người khổ vì yêu nhau mà phải xa lìa, ghét nhau mà phải chung sống, muốn một đàng mà thực tế đưa đi một nẻo. Con người khổ vì tai trời, nạn nước: bão, lụt, chiến tranh, trộm cướp v.v... Con người khổ vì sống trong một hoàn cảnh mê mờ, tối tăm, không biết đâu là thật, đâu là giả, đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là ảo ảnh giả dối. Con người khổ vì mong được trường tồn mà cõi đời lại vô thường, luôn luôn biến đổi, có đó không đó, còn đó mất đó, như một trò mộng huyễn. Con người khổ vì tưởng rằng có một cái thật ngã làm nòng cốt cho sự sống, thuần nhất, tự tại, ngờ đâu cái Ngã ấy là giả dối, không có thật, và bị hoàn cảnh chi phối làm cho điêu đứng, đảo điên.
Tóm lại, cõi đời là một bể khổ làm bằng nước mắt của tất cả chúng sinh.
III. PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
1. Tứ diệu đế
Muốn giải thoát ra ngoài bể khổ mênh mông của cõi đời, Câu Xá tông chủ trương phải tu theo pháp “Tứ diệu đế”. Tứ diệu đế tức là bốn lẽ chân thật đưa người tu hành từ cảnh mê đến cảnh ngộ, từ cõi Ta bà đau khổ, đến cảnh giới Niết bàn tịch tịnh.
- Diệu đế thứ nhất chỉ rõ cho người tu hành thấy cõi đời là đau khổ.
- Diệu đế thứ hai chỉ rõ cho người tu hành thấy được nguyên nhân của sự đau khổ trong cõi Ta bà.
- Diệu đế thứ ba chỉ rõ cảnh giới an lạc sau khi ra khỏi cõi đời đau khổ.
- Diệu đế thứ tư chỉ rõ con đường tu hành để đi đến cảnh giới an lạc của Niết bàn.
Bốn Diệu đế ấy tức là: khổ, tập, diệt, đạo vậy.
2. Thập nhị nhân duyên
Với những căn cơ lanh lợi, thì có thể tu theo pháp Thập nhị nhân duyên. Thập nhị nhân duyên là 12 nhân duyên kế tiếp theo nhau, làm nhân, làm quả, khiến cho chúng sinh phải mãi mãi xoay vần trong biển khổ sinh tử luân hồi. Mười hai nhân duyên ấy là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Mười hai nhân duyên này như mười hai vòng xích nối liền với nhau làm thành một chuỗi xích, không biết đâu là đầu, đâu là cuối. Nếu cắt đứt được một vòng xích thì chuỗi xích ấy tất phải phải đứt đọan. Đối với kẻ tu hành, muốn chấm dứt sinh tử luân hồi, thì cái mắt xích cần phải bị cắt đứt là “ái”. Ái ở đây tức là luyến ái. Vì luyến ái nên mới có thủ cho mình, rồi “thủ” sinh ra “hữu”. Và từ đó, cái vòng sinh tử lại tái diễn. Vậy không có “ái”, thì không có “hữu”, không có “hữu” thì không có “sinh”, không có “sinh” thì không có “lão tử”, nghĩa là không có khổ đau.
IV. QUẢ VỊ TU CHỨNG
1. Người tu theo pháp Tứ diệu đế, nếu mau lắm thì cũng phải trải qua ba đời, còn nếu chậm, thì phải trải qua 60 kiếp, mới chứng được A la hán, là cõi cao nhất của hàng Thanh văn.
Trước khi chứng được quả vị A la hán, hành giả tuần tự chứng các quả dưới đây:
Tu đà hoàn, Tàu dịch là Nhập lưu, hay Dự lưu, nghĩa là bắt đầu nhập vào dòng Thánh.
Tư đà hàm, Tàu dịch là Nhất lai, nghĩa là còn phải đầu thai vào cõi Dục giới một lần cuối cùng nữa, để tu hành cho rốt ráo, trước khi vĩnh viễn xa rời cõi này.
A na hàm, Tàu dịch là Bất-lai, nghĩa là không còn phải đầu thai vào cõi Dục giới nữa. Hết bậc này là đến quả vị A la hán.
A la hán, Tàu dịch là Ứng cúng hay Vô sinh, nghĩa là dứt bỏ được cái điều mê lầm trong cõi Sắc giới và Vô sắc giới, không còn phiền não, không còn chịu sinh tử luân hồi, vượt ra khỏi ba cõi, hưởng sự cúng dường của thiên và nhân. Bậc này gọi là bậc Vô học, nghĩa là không phải tu học pháp gì nữa.
2. Đối với lối tu Duyên giác, nghĩa là tu theo lối quán 12 nhân duyên, thì quả vị không có chia ra nhiều tầng bậc, chẳng qua khi đang tu hành thì gọi là Duyên giác hướng, nghĩa là đi lần tới mục đích của sự tu hành là quả Duyên giác. Còn khi tu được đầy đủ, dứt mối mê lầm, chứng được chân lý, thường hưởng được cái vui giải thoát trong cảnh Niết bàn, thì gọi là Duyên giác quả. Vị chứng được quả này thì gọi là Bích Chi Phật, tức là vị Phật đã tự giải thoát cho mình, nhưng chưa có thể giác tha. Từ khi bắt đầu tu hành cho đến khi chứng quả Duyên giác, thời gian dài ngắn khác nhau tùy theo căn cơ của kẻ tu hành: với căn cơ lanh lợi thì ít ra cũng phải trải qua bốn đời tu luyện; với căn cơ chậm lụt thì phải trải qua 100 kiếp tu hành.
V. KẾT LUẬN
Câu Xá tông, mặc dù chỉ là một tông phái trong nhiều tông phái của Tiểu thừa, nhưng có thể đại diện một cách gần đầy đủ cho phái Tiểu thừa Phật giáo. Bởi thế, Câu Xá tông, chúng ta có thể hiểu một cách khá tường tận giáo lý căn bản và phương pháp tu hành của hàng Tiểu thừa trong quá khứ xa xưa.
Nhưng từ khi tông này được thành lập ở Trung Hoa đến bây giờ, thời gian đã trôi qua hơn một ngàn năm. Trong thời gian ấy, chắc cũng có nhiều sự biến đổi trong chi tiết. Chúng tôi rất tiếc không có nhiều tài liệu để nghiên cứu một cách đầy đủ những biến chuyển của tông này qua thời gian và sự tồn tại của nó trong hiện tại như thế nào. Do đó, chúng tôi thành thật đề nghị với quý vị độc giả hãy xem bài này như một bài nghiên cứu về một trong mười tông phái ở Trung Hoa, chứ chưa phải là một “con đường” hoàn bị, hướng dẫn trực tiếp quý vị vào sự tu luyện. Chúng tôi muốn nói, nếu quý vị thấy căn cơ mình thích hợp với giáo lý Tiểu thừa, mà muốn bắt tay vào sự tu luyện, thì cũng cần phải tìm đọc thêm nhiều nữa và nghiên cứu cho đến nơi đến chốn, để khỏi lạc hướng sai đường.