KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch
Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh
52. PHẨM THIỆN TRI THỨC THỨ NĂM MƯƠI HAI
Ngài
Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Hàng
tân học Bồ Tát phải học
sáu ba la mật như thế nào?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu muốn học
sáu ba la mật, hàng
tân học Bồ Tát phải trước
cúng dường gần gũi bực
thiện tri thức hay giảng nói
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy.
Thiện tri thức ấy giảng dạy rằng: Nầy
thiện nam tử! Có bao nhiêu
bố thí đều
hồi hướng Bồ đề tất cả, có bao nhiêu
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định,
trí huệ đều
hồi hướng Vô thượng Bồ đề tất cả. Ngươi chớ cho sắc, thọ, tưởng, hành, thức là
Vô thượng Bồ đề, chớ cho
sáu ba la mật là
Vô thượng Bồ đề, chớ cho
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không là
Vô thượng Bồ đề, chớ cho
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo là
Vô thượng Bồ đề, chớ cho
mười trí lực đến mười
tám pháp bất cộng là
Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì chẳng nắm lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì được
Vô thượng Bồ đề, chẳng nắm lấy
sáu ba la mật nhẫn đến chẳng nắm lấy mười
tám pháp bất cộng thì được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy
thiện nam tử! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật sâu xa nầy chớ tham sắc, chớ tham thọ, tưởng, hành, thức, chớ tham
sáu ba la mật nhẫn đến chớ tham nhứt thiết
chủng trí. Vì sắc chẳng phải cái có
thể tham được, nhẫn đến vì nhứt thiết
chủng trí chẳng phải có cái để tham được.
Nầy
thiện nam tử! Chớ tham quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến chớ tham bực
Bồ Tát, chớ tham
Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì
Vô thượng Bồ đề chẳng phải cái có thể được. Tại sao vậy? Vì
pháp tánh không vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Chư
Bồ Tát hay làm việc khó: ở trong
pháp tánh không mà cầu
Vô thượng Bồ đề, mà muốn được
Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật dạy: “Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề!
đại Bồ Tát hay làm được việc khó: Ở trong
pháp tánh không mà cầu
Vô thượng Bồ đề, mà muốn được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì muốn
an ổn thế gian nên
chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì muốn
an lạc thế gian,
cứu thế gian, làm chỗ về cho
thế gian, làm chỗ ý cứ cho
thế gian, làm cồn đảo cho
thế gian, làm nhà
dìu dắt thế gian, làm
con đường rốt ráo cho
thế gian, làm chỗ đến cho
thế gian mà
chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì
an ổn thế gian, vì
an lạc thế gian mà
chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề?
Đại Bồ Tát lúc được
Vô thượng Bồ đề để cứu với
lục đạo chúng sanh ra khỏi lo khổ sấu não, đặt lên bờ
Niết Bàn vô úy.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì
cứu thế gian mà
chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề?
Đại Bồ Tát lúc được
Vô thượng Bồ đề cứu khổ sanh tử cho
chúng sanh,
thuyết pháp cho
chúng sanh,
chúng sanh được
nghe pháp lần lần do
ba thừa mà được
độ thoát.
Nầy Tu Bồ Đề! thế nào là vì làm chỗ về cho
thế gian mà
chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề?
Đại Bồ Tát lúc được
Vô thượng Bồ đề cứu
chúng sanh ra khỏi tướng sanh, già, bịnh, chết, lo buồn
sầu não, đặt chúng nơi bờ
Niết Bàn vô úy.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì làm chỗ
y cứ cho
thế gian mà
chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề?
Đại Bồ Tát lúc được
Vô thượng Bồ đề vì
chúng sanh mà nói tất cả
pháp không chỗ y cứ”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là tất cả
pháp không chỗ y cứ?”
Đức Phật dạy: “Nầy Tu Bồ Đề! Sắc chẳng
tương tục đó là
sắc không sanh,
sắc không sanh đó là
sắc không diệt,
sắc không diệt đó là
sắc không chỗ
y cứ. Như sắc, thọ, tưởng, hành, thức đến nhứt thiết
chủng trí cũng vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! thế nào vì làm
con đường rốt ráo cho
thế gian mà
chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề? Lúc được
Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát vì
chúng sanh mà nói
pháp như vầy: Tướng
rốt ráo của sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến của nhứt thiết
chủng trí chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chẳng phải nhứt thiết
chủng trí.
Như tướng
rốt ráo, tất cả
pháp tướng đều như vậy”.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như tướng
rốt ráo, tại sao
chư đại Bồ Tát đều phải được
Vô thượng Bồ đề. Vì trong tướng
rốt ráo của sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến trong tướng
rốt ráo của nhứt thiết
chủng trí đều không có
phân biệt là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến không có
phân biệt là nhứt thiết chủng trí“.
Đức Phật dạy: “Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Trong tướng
rốt ráo của sắc, của thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến không có
phân biệt là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến không có
phân biệt là nhứt thiết
chủng trí.
Tu Bồ Đề! Đây là việc khó của
đại Bồ Tát:
quán sát tướng
tịch diệt của các pháp mà tâm
Bồ Tát chẳng mất, chẳng bỏ. Vì
đại Bồ Tát nghĩ rằng pháp
sâu xa như vậy tôi phải biết như vậy, lúc được
Vô thượng Bồ đề sẽ vì
chúng sanh mà nói
pháp tịch diệt
vi diệu như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì làm cồn đảo cho
thế gian mà
đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề? Trong sông trong biển, chỗ đất mà bốn phía đều bị nước cắt đứt thì gọi là cồn đảo. Cũng vậy, sắc trước sau đứt đoạn, thọ, tưởng, hành, thức trước sau đứt đoạn, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí trước sau đứt đoạn. Vì trước sau đứt đoạn nên tất cả pháp đều đứt đoạn.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp trước sau đứt đoạn đó là
tịch diệt, đó là diệu bảo, tức là không, là
vô sở đắc, nhiễn ái dứt sạch, là
ly dục Niết Bàn.
Lúc được
Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát vì
chúng sanh mà nói
pháp tịch diệt
vi diệu.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì làm nhà
dìu dắt thế gian mà
chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề?
Đại Bồ Tát lúc được
Vô thượng Bồ đề vì
chúng sanh mà giảng nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, vì
chúng sanh mà giảng nói
thập nhị nhập,
thập bát giới,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ không định,
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo,
ngũ thần thông là chẳng sanh, diệt, chẳng cấu, tịnh, giảng nói
Tu Đà Hoàn quả nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí là chẳng sanh, diệt, cấu, tịnh.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì làm chỗ đến cho
chúng sanh mà
chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề!
Đại Bồ Tát lúc được
Vô thượng Bồ đề vì
chúng sanh mà giảng nói sắc đến không, thọ, tưởng, hành, thức đến
không nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí đến không. Vì
chúng sanh mà giảng nói sắc chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến, nhẫn đến giảng nói nhứt thiết
chủng trí chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Tại sao vậy? Vì
tướng không của sắc chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến, vì
tướng không của thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến
tướng không của nhứt thiết
chủng trí chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Vì tất cả pháp đến không tức là đến mà chẳng có qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong không đều không có đến hay chẳng phải đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến
vô tướng. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong
vô tướng, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến
vô tác. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong
vô tác, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến vô khởi, đến
bất sanh diệt, đến bất cấu tịnh, đến
vô sở hữu. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong vô khởi, trong
vô sở hữu, trong
bất sanh diệt, bất cấu tịnh, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến mộng, ảo, hưởng, ảnh, hóa. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong mộng, ảo, hưởng, ảnh, hóa, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến
vô lượng vô biên. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong
vô lượng vô biên, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến chẳng cho, chẳng lấy. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong chẳng cho, chẳng lấy nầy, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến chẳng cao, chẳng hạ. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong chẳng cao, chẳng hạ nầy, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến bất tăng, bất giảm. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong bất tăng, bất giảm nầy, đến và chẳng đến đều không thể được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến
bất lai, bất khứ, bất nhập xuất, bất hiệp tán, bất trước đoạn. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong
bất lai khứ, nhập xuất, hiệp tán, trước đoạn, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến ngã, đến nhơn, đến
chúng sanh, đến
thọ giả, đến khởi, đến sử khởi, đến tác, đến sử tác, đến
tri giả, đến
kiến giả. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì ngã nhẫn đến
tri giả,
kiến giả đều
rốt ráo không có được thì làm sao có đến, chẳng phải đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến thường, đến lạc, đến ngã, đến tịnh. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì thường, lạc, ngã, tịnh
rốt ráo không có được thì làm sao có đến, chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến tham, sân, si, mạn, nghi, kiến. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì tham, sân, si, mạn, nghi, kiến
rốt ráo không có được thì làm sao có đến, chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến như, đến
pháp tánh, đến thiệt tế, đến bất tư nghì tánh. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong như, trong
pháp tánh, thiệt tế, bất tư nghì
tánh không có lai, không có khứ.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến
bình đẳng, đến
bất động tướng. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong
bình đẳng, trong tướng
bất động không có đến và chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến sắc, đến thọ, tưởng, hành, thức, đến
thập nhị nhập,
thập bát giới. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhập, giới đều chẳng có được thì làm sao có đến, chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến
lục ba la mật nhẫn đến
thập bát không, đến
ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì
sáu ba la mật nhẫn đến
bát thánh đạo đều không có được thì làm sao có đến, chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến
mười trí lực nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong nhứt thiết
chủng trí không có đến và chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến trong
Vô thượng Bồ đề không có đến và chẳng đến”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! ai là người tin hiểu
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy?”
Đức Phật dạy: “Nầy Tu Bồ Đề! Có
đại Bồ Tát từ trước ở chỗ chư Phật đã tu
sáu ba la mật,
thiện căn thuần thục,
cúng dường vô số trăm ngàn muôn ức chư Phật, thường gần gũi
thiện tri thức. Những người nầy
hay tin hiểu
Bát nhã ba la mật sâu xa”.
Bạch đức Thế Tôn! Người
hay tin hiểu
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy có tánh gì, tướng gì, mạo gì?
Tánh, tướng, mạo rời lìa tham, sân, si,
đại Bồ Tát nầy tin hiểu
Bát nhã ba la mật sâu xa”.