Lúc bấy giờ trong cõi
Đại Thiên có
chư Thiên cõi Dục, Sắc vói
rải hoa hương rồi bay đến chỗ
đức Phật,
đảnh lễ chưn Phật rồi đứng qua một phía mà thưa rắng: “Bạch đức Thế Tôn! Đã nói
ba la mật rất sâu. Những gì là tướng
Bát nhã ba la mật rất sâu?”
Đức Phật bảo
chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc: “Nầy
chư Thiên Tử!
Tướng không, tướng
vô tướng, tướng
vô tác là tướng
Bát nhã ba la mật rất sâu, tướng vô khởi,
vô sanh, vô diệt,
vô cấu, vô tịnh,
vô sở hữu,
vô tướng,
vô sở y, tướng
hư không là tướng
Bát nhã ba la mật.
Nầy
chư Thiên Tử! Những tướng như là tướng
Bát nhã ba la mật rất sâu.
Đức Phật dùng pháp
thế gian để giảng nói cho
chúng sanh, chớ chẳng phải là
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
chư Thiên Tử! Các tướng ấy, tất cả Thiên, Nhơn,
A Tu La trong đời không
phá hoại được. Tại sao vậy? Vì Thiên, Nhơn,
A Tu La trong đời cũng là tướng.
Nầy
chư Thiên Tử!
Tướng không thể
phá hoại tướng,
tướng không thể biết tướng,
tướng không thể biết
vô tướng,
vô tướng không thể biết tướng, tướng và
vô tướng chỗ biết cho rằng biết đó là vì pháp biết đều chẳng thể được. Tại sao vậy? Nầy
chư Thiên Tử! Các tướng chẳng phải sắc làm ra, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức làm ra, chẳng phải
sáu ba la mật làm ra, nhẫn đến chẳng phải nhứt thiết
chủng trí làm ra.
Nầy
chư Thiên Tử! các tướng ấy chẳng phải
sở hữu của người, của trời, chẳng phải
thế gian,
xuất thế gian, chẳng phải
hữu lậu,
vô lậu, chẳng phải
hữu vi,
vô vi.
Nầy
chư Thiên Tử! Như có người hỏi rằng những gì là tướng của hư không? Lời hỏi nầy có đúng không?
Chư Thiên thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Lời hỏi ấy không đúng. Vì
hư không chẳng có tướng nói được, vì
hư không chẳng
sanh khởi, chẳng bị làm ra”.
Đức Phật bảo
chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc: “Có Phật hay không có Phật,
tánh tướng vẫn
thường trụ. Vì được
tánh tướng đúng như thiệt mà
đức Phật được gọi là Như Lai”.
Chư Thiên thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật được các
pháp tánh tướng rất sâu. Được
tánh tướng ấy rồi được
vô ngại trí. An trụ trong tướng nầy dùng
Bát nhã ba la mật họp
tự tướng của các pháp.
Bát nhã ba la mật nầy là chỗ
thường hành đạo của chư Phật. Do
hành đạo nầy nên được
Vô thượng Chánh giác. Do được
Vô thượng Bồ đề mà
thông đạt tất cả
pháp tướng, hoặc
sắc tướng nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí tướng”.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy. Nầy
chư Thiên Tử! Tướng não hoại là tướng của sắc,
cảm giác là tướng của thọ, duyên lấy tướng của tưởng,
sanh khởi tạo tác là tướng của hành,
liễu biệt là tướng của thức.
Đức Phật được không các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử! Hay
xả thí là tướng
Đàn na ba la mật, không
nhiệt não là tướng của
Thi la ba la mật, chẳng đổi khác là tướng của
Nhẫn ba la mật, chẳng thối lui là tướng của Tấn
ba la mật,
nhiếp tâm là tướng của
Thiền ba la mật, bỏ lìa là tướng
Bát nhã ba la mật. Đức được không có các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử! Lòng không nhiễu hại
não loạn là tướng của
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định.
Đức Phật được không các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử!
Xuất thế gian là tướng của
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, rời lìa là tướng của
không giải thoát,
tịch diệt là tướng của
vô tướng giải thoát, khổ là tướng của
vô tác giải thoát.
Đức Phật được không các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử! Siêu thắng là tướng của
mười trí lực, chẳng kinh sợ là tướng của bốn
vô úy, biết khắp hết là tướng của bốn trí
vô ngại, người khác không được là tướng của mười
tám pháp bất cộng.
Đức Phật được không các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử!
Thương xót chúng sanh là tướng của
đại từ đại bi, chơn thiệt là tướng của không
sai lầm,
vô sở thủ là tướng của thường xả,
hiện tại biết rõ là tướng của nhứt thiết
chủng trí.
Đức Phật được không các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử! Vì được tất cả
pháp không tướng nên
đức Phật được gọi là bực trí vô ngại”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Bát nhã
ba la mật là mẹ chư Phật.
Bát nhã ba la mật hay
hiển thị tướng
thế gian. Thế nên Phật
y chỉ pháp để an trụ,
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
ca ngợi pháp ấy. Pháp ấy là gì? Chính là
Bát nhã ba la mật.
Đức Phật y chỉ nơi
Bát nhã ba la mật để an trụ,
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
ca ngợi Bát nhã ba la mật. Vì
Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh chư Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
đức Phật là người biết
tác động. Nếu có người hỏi đúng. Là người biết
tác động đáp đúng, không ai hơn
đức Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
đức Phật là người biết
tác động nên pháp của
đức Phật đi và đạo của
đức Phật đến chừng được
Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật trở lại cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
ca ngợi pháp ấy, đạo ấy và
thọ trì thủ hộ pháp ấy, đạo ấy.
Nầy Tu Bồ Đề! Đó gọi là
đức Phật là người biết
tác động.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật biết tất cả
pháp không có tướng tạo tác vì không có tướng
tác giả. Tất cả
pháp không có tướng
sanh khởi vì không có
hình sự.
Nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết các
pháp không có tướng tạo tác, không có tướng
sanh khởi. Cũng vì cớ nầy mà
đức Phật là người biết
tác động.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật do
Bát nhã ba la mật mà được tất cả pháp chẳng sanh, vì là
vô sở đắc vậy. Thế nân
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng thế gian”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp là không biết, là không thấy, sao
Bát nhã ba la mật lại hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng thế gian?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Tất cả
pháp không biết, không thấy. Thế nào là không biết, là không thấy? Vì tất cả pháp vốn không, là
hư giả chẳng
kiên cố, nên tất cả
pháp không biết, không thấy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Tất cả
pháp không y chỉ, không chỗ
hệ phược, thế nên tất cả
pháp không biết không thấy.
Do đó mà
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Vì chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chẳng thấy nhứt thiết
chủng trí nên
Bát nhã ba la mật hay
hiển thị tướng
thế gian, hay sanh chư Phật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Tại sao chẳng thấy sắc nhẫn đến chẳng thấy nhứt thiết
chủng trí nên
Bát nhã ba la mật hay
hiển thị tướng thế gian?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu chẳng duyên nơi sắc để sanh
phân biệt, chẳng duyên nơi thọ, tưởng, hành, thức để sanh
phân biệt, nhẫn đến chẳng duyên nơi nhứt thiết
chủng trí để sanh phân biêt, đó chẳng gọi là chẳng thấy tướng của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến chẳng gọi là chẳng thấy tướng của nhứt thiết
chủng trí, nên
hiển thị tướng
thế gian. Do đây mà
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Thế nào là
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng thế gian?
Nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị thế gian không.
Hiển thị thế gian không như thế nào?
Hiển thị ngũ ấm thế gian không,
hiển thị thập nhị nhập thế gian không,
hiển thị thập bát giới thế gian không,
hiển thị thập nhị nhơn duyên thế gian không,
hiển thị ngã kiến cùng sáu mươi hai
kiến thức thế gian không,
hiển thị mười
thiện đạo thế gian không,
hiển thị tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ định thế gian không,
hiển thị ba mươi bảy phẩm trợ đạo thế gian không,
hiển thị sáu ba la mật thế gian không,
hiển thị nội không,
ngoại không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không thế gian không,
hiển thị hữu vi tánh,
vô vi tánh
thế gian không,
hiển thị mười trí lực nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí thế gian không. Đó là
hiển thị thế gian không.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật do
Bát nhã ba la mật hiển thị thế thế gian không nên biết
thế gian không, hay
thế gian không,
tư duy thế gian không,
phân biệt thế gian không. Thế nên
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị phất
thế gian không.
Hiển thị Phật thế gian không thế nào?
Hiển thị ngũ ấm thế gian không, nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian không.
Thế nên
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
bất khả tư nghì:
Hiển thị ngũ ấm thế gian bất khả tư nghì nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian bất khả tư nghì.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian ly:
Hiển thị ngũ ấm thế gian ly nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian ly.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
tịch diệt:
Hiển thị ngũ ấm thế gian tịch diệt nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian tịch diệt.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
rốt ráo không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian rốt ráo không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian rốt ráo không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
tánh không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian tánh không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian tánh không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
vô pháp không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian vô pháp không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian vô pháp không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
hữu pháp không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian hữu pháp không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian hữu pháp không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
hữu pháp không,
hiển thị ngũ ấm thế gian hữu pháp không, nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian hữu pháp không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
vô pháp hữu pháp không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian vô pháp hữu pháp không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian vô pháp hữu pháp không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
độc không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian độc không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian độc không.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hay xuất sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
Phật thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy
hiển thị tướng
thế gian, đó là tướng chẳng sanh đời nầy,
đời sau. Tại sao vậy? Vì các
pháp không có tướng dùng sanh đời nầy,
đời sau được”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy vì sự lớn mà
phát khởi, vì sự
bất khả tư nghì mà
phát khởi, vì sự
bất khả xưng mà
phát khởi, vì sự
vô lượng mà
phát khởi, vì sự
vô đẳng mà phát khởi”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Nầy
Tu Bồ Đề,
Bát nhã ba la mật nầy vì
đại sự, vì
bất khả tư nghì sự, vì
bất khả xưng sự, vì
vô đẳng đẳng sự, vì
vô đẳng sự mà
phát khởi.
Thế nào
Bát nhã ba la mật vì
đại sự nên phát khởi?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại sự của chư Phật là: cứu tất cả
chúng sanh, chẳng rời bỏ tất cả
chúng sanh.
Thế nào
Bát nhã ba la mật vì
bất khả tư nghì sự nên phát khởi?
Nầy Tu Bồ Đề!
bất khả tư nghì sự là
Phật pháp, là pháp của
Như Lai, là pháp của đấng
tự nhiên, là pháp của bực
nhứt thiết trí.
Thế nào là
Bát nhã ba la mật vì
bất khả xưng mà phát khởi?
Nầy Tu Bồ Đề! Sự
bất khả xưng là vì trong tất cả
chúng sanh không ai có thể
tư duy xưng lược được pháp của Phật, pháp của
Như Lai, pháp của đấng
tự nhiên, pháp của bực
nhứt thiết trí.
Thế nào là
Bát nhã ba la mật vì sự
vô lượng mà phát khởi?
Nầy Tu Bồ Đề! Trong tất cả
chúng sanh không có ai thể lường được pháp của Phật, pháp của đấng
Như Lai, pháp của đấng
tự nhiên, pháp của bực
nhứt thiết trí, thế nên
Bát nhã ba la mật vì sự bất khả lượng mà
phát khởi.
Thế nào là
Bát nhã ba la mật vì
vô đẳng đẳng sự mà phát khởi?
Nầy Tu Bồ Đề! Trong tất cả
chúng sanh không ai có thể ngang bằng
đức Phật huống là hơn, thế nên
Bát nhã ba la mật vì sự
vô đẳng đẳng mà phát khởi”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật chỉ vì pháp của Phật, pháp của
Như Lai, pháp của đấng
tự nhiên, pháp của bực
nhứt thiết trí, là sự
bất khả tư nghì,
bất khả xưng, bất khả lượng,
vô đẳng đẳng mà
phát khởi ư?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Pháp của Phật, của
Như Lai, của đấng
tự nhiên, của bực
nhứt thiết trí là sự
bất khả tư nghì,
bất khả xưng, bất khả lượng,
vô đẳng đẳng. sắc thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí,
pháp tánh,
pháp tướng đều cũng
bất khả tư nghì,
bất khả xưng, bất khả lượng,
vô đẳng đẳng. Trong đây, tâm và tâm đều
bất khả đắc.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc
bất khả đắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc nên sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí đều bất khả nghì,
bất khả xưng, bất khả lượng,
vô đẳng đẳng.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Do đâu mà vì sắc
bất khả đắc nên sắc
bất khả tư nghì, đến
vô đẳng đẳng? Nhẫn đến do đâu mà vì nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc nên nhứt thiết
chủng trí bất khả tư nghì đến
vô đẳng đẳng?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Vì không ai có thể lường được sắc nhẫn đến không ai có thể lường được nhứt thiết
chủng trí nên sắc
bất khả đắc, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc.
Tại sao vậy? Nầy Tu Bồ Đề! Vì
sắc tướng bất khả tư nghì nên không ai lường được nhẫn đến vì
sắc tướng vô đẳng đẳng nên không ai lường được. Vì nhứt thiết
chủng trí bất khả tư nghì nên không ai lường được nhẫn đến vì nhứt thiết
chủng trí vô đẳng đẳng nên không ai lường được.
Nầy Tu Bồ Đề! Ý của ông thế nào? Trong
bất khả tư nghì đến trong
vô đẳng đẳng chừng có thể được chăng? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đến nhứt thiết
chủng trí chừng có thể được chăng?”
Bạch đức Thế Tôn! Không thể được!
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! tất cả pháp đều
bất khả tư nghì nhẫn đến cũng đều
vô đẳng đẳng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Phật pháp đây
bất khả tư nghì,
bất khả xưng, bất khả lượng,
vô đẳng đẳng. Đây gọi là
Phật pháp bất khả tư nghì nhẫn đến gọi là
vô đẳng đẳng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Phật pháp bất khả tư nghì vì quá tư nghì vậy.
Phật pháp bất xưng vì quá xưng vậy.
Phật pháp bất khả lượng vì quá lượng vậy.
Phật pháp vô đẳng đẳng vì quá đẳng đẳng vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Do đây nên tất cả pháp
bất khả tư nghì đến
vô đẳng đẳng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Bất khả tư nghì là gọi nghĩa ấy
bất khả tư nghì,
bất khả xưng là gọi nghĩa ấy
bất khả xưng, bất khả lượng là gọi nghĩa ấy bất khả lượng,
vô đẳng đẳng là gọi nghĩa ấy
vô đẳng đẳng.
Nầy Tu Bồ Đề! Pháp của chư Phật đây
bất khả tư nghì đến
vô đẳng đẳng.
Bất khả tư nghì như
hư không bất khả tư nghì,
bất khả xưng như
hư không bất khả xưng, bất khả lượng như
hư không bất khả lượng,
vô đẳng đẳng như
hư không vô đẳng đẳng.
Nầy Tu Bồ Đề! Đây gọi là
Phật pháp bất khả tư nghì nhẫn đến
vô đẳng đẳng.
Phật pháp vô lượng như vậy. Tất cả Trời, Người,
A Tu La không ai có
thể tính lường nghĩ bàn được”.
Lúc
đức Phật nói phẩm
Phật pháp bất khả tư nghì,
bất khả xưng,
vô lượng ,
vô đẳng đẳng nầy, có năm trăm
Tỳ Kheo và hai mươi
Tỳ Kheo Ni vì chẳng thọ tất cả pháp nên
phiền não hết, tâm
được giải thoát, chứng
A La Hán, sáu muôn
Ưu Bà Tắc và ba muôn
Ưu Bà Di xa lìa trần cấu, được
pháp nhãn thanh tịnh, hai mươi
đại Bồ Tát được
vô sanh pháp nhẫn, sẽ được
thọ ký trong
Hiền Kiếp nầy.