- Dẫn Nhập
- A. Chánh Văn - I. Lời Tiểu Dẫn
- A. Chánh Văn - II. Tựa
- A. Chánh Văn - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 1)
- A. Chánh Văn - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 2)
- A. Chánh Văn - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 3)
- A. Chánh Văn - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 4)
- B. Giảng Giải - I. Lời Tiểu Dẫn
- B. Giảng Giải - II. Tựa (Đoạn 1)
- B. Giảng Giải - II. Tựa (Đoạn 2)
- B. Giảng Giải - II. Tựa (Đoạn 3)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 1)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 2)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 3)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 4)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 5)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 6)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 7)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 8)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 9)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 10)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 11)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 12)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 13)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 14)
- B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 15)
- B. Giảng Giải - IV. Kệt Luận
B. Giảng Giải - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 3)
Lại nói: - Chẳng phải không, chẳng phải sắc, ứng hóa thành muôn thứ mà chẳng lìa một chân thật. Tâm vương là thể như như, trong lặng thường trụ; vốn tự viên thành, dường như hư không; ứng vật hiện hình, như trăng trong nước. Nghĩa là tâm vương hay ứng hiện vào trong các loài, nên nói là thức hòa hợp. Bản tánh tâm vương như gương tròn lớn hiện các thứ hình sắc. Tâm vương vốn không hình tướng, tuy không hình tướng mà hay hiện thành tất cả các tướng, nhưng lại chẳng nhiễm tất cả các tướng. Tướng đến thì hiện, tướng đi thì mất, tướng tụ thì có, tướng tan thì không; tướng tuy có đến đi, tụ tan mà tâm vương vốn tự trong trẻo thường lặng lẽ. Như gương tròn lớn hay hiện tất cả vật, tuy hay hiện tất cả vật mà chẳng nhiễm tất cả vật; vật đến thì hiện, vật đi thì mất, vật có đến đi hiện mất, nhưng gương vốn tự sẵn vậy chẳng động. Vì vậy đem gương tròn dụ tâm vương. Song tâm vương chẳng nhiễm các vật, xưa nay thanh tịnh, trong lặng thường trụ, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không một vật, không thể nắm bắt. Nên nói Pháp thân thanh tịnh tức là tánh của mọi người, Báo thân viên mãn tức là trí của mọi người, Hóa thân ngàn trăm ức tức là hạnh của mọi người.
Đoạn này Ngài giải thích thêm về tâm vương. Ba tên chân không, tâm vương, Pháp thân tuy khác, nhưng đều chỉ cho cái thể, đều là một gốc. Cho nên gọi tâm vương, chân không, Pháp thân gì cũng được. Bởi đứng về mặt tâm thì nói tâm vương tâm sở. Tâm vương là Tâm thể không sanh diệt, còn tâm sở là tâm duyên theo cảnh phân biệt nên nó sanh diệt. Đứng về mặt thân thì gọi là Pháp thân. Vì cái thân tứ đại của chúng ta là cái thân hiện tượng có đi lại, có nói năng, hoạt động, cái thân đó không phải là cái thân bất sanh bất diệt. Như vậy thân của chúng ta là cái thân theo nghiệp báo mà có chớ không phải là Pháp thân. Pháp thân thì không hình tướng, nhưng bất sanh bất diệt nên gọi là Pháp thân. Gọi là chân không là vì Pháp thân này không có hình tướng, không một vật, một pháp mà người thế gian có thể thấy nghe nắm bắt được, tuy nhiên không tướng nhưng mà hằng hữu. Tóm lại, chân không, Pháp thân hay tâm vương cũng đều chỉ cho cái thể đó. Ở đây ngài Chân Nguyên nói tâm vương ví như tấm gương tròn sáng chiếu soi sự vật, nếu vật dơ thì nhìn cái bóng trong gương dơ, nếu vật sạch thì nhìn cái bóng trong gương sạch. Vật đen thấy đen, vật trắng thấy trắng. Vật ở ngoài thế nào thì nó hiện vào gương thế ấy. Tuy nhiên gương hiện bóng dơ sạch mà gương có dơ sạch không? Bản chất của gương thì không dơ không sạch. Như vậy để thấy rằng tâm vương có thấy nghe hay biết tất cả mọi cảnh vật. Nó thấy sắc nghe tiếng rất là rành rõ, nếu không thêm một niệm phân biệt của tâm sở thì tất cả cảnh vật không làm cho tâm vương dơ sạch hay phân biệt tốt xấu rồi khen chê. Ngài ví tâm vương như cái gương để biết rõ rằng nếu hằng ngày chúng ta thấy, nghe, ngửi nếm, xúc chạm... mà không thêm niệm phân biệt của tâm sở thì tâm vương không dính mắc. Như vậy chúng ta tu không phải tìm kiếm nơi nào, trốn tránh ở đâu, mà ngay trong khi tiếp xúc với mọi sự vật tâm không nhiễm dơ dính mắc, tâm không nhiễm dơ dính mắc thì không có niệm khen chê thương ghét, đó là cái gốc của sự tu.
Theo cái nhìn của ngài Chân Nguyên, Pháp thân tức Tánh giác của mọi người, Báo thân là trí của mình, Hóa thân là hạnh của mình. Như vậy Tánh giác trí tuệ và công hạnh của chúng ta là đủ ba thân. Trong chúng ta có người nào thiếu ba cái này không? Chắc chắn là ai cũng có đủ. Vậy trong lúc tu chúng ta khéo sử dụng trí tuệ để đạt đến sự giác ngộ chân thật, sử dụng công hạnh để làm lợi ích cho mọi người, hai điều này được viên mãn thì chúng ta đầy đủ ba thân.
Pháp thân thanh tịnh là sẵn thanh tịnh như vậy, là chí tôn từ bao thuở, thấy biết rất nhiệm mầu, không gì sánh ngang, trong lặng chân thật thanh tịnh, không hình không tướng, gọi đó là Pháp thân thanh tịnh. Pháp thân tuy không hình không tướng mà hay hiện tất cả hình tướng. Đã thành các hình tướng thì gọi đó là Ứng thân. Ứng thân thì có thiện ác, tốt xấu, tùy theo nghiệp báo mà thọ lấy thân. Nghiệp báo thiện tức có tướng tốt, nghiệp báo ác tức có tướng xấu. Tùy nơi nghiệp báo mà thọ lấy thân, gọi là Báo thân. Báo thân, nghĩa là thân nghiệp báo một đời. Còn Ứng thân tức là thân ứng hiện ra. Sao gọi là thân ứng hiện ra? Tức nhân nghiệp báo cảm thành mà ứng hiện ra có thân, gọi đó là thân báo ứng. Nghĩa là Pháp thân hay ứng vào Sắc thân, ứng nơi mắt thấy sắc, ứng nơi tai nghe tiếng, ứng nơi mũi ngửi mùi, ứng nơi lưỡi đàm luận, ứng nơi thân cảm xúc, ứng nơi ý biết pháp, cho đến giơ tay động chân đều là Ứng thân.
Đoạn này Ngài giải thích về Pháp thân thanh tịnh. Pháp thân thanh tịnh là thanh tịnh từ thuở nào, chớ không phải do dụng công tu hành mà nó được thanh tịnh nên nói chí tôn từ bao thuở. Bởi vì mọi sự vật trên thế gian đều là tướng vô thường sanh diệt, còn Pháp thân là bất sanh bất diệt nên nói nó là chí tôn. Chí tôn là nó quí hơn tất cả. Cái thấy biết của Pháp thân rất nhiệm mầu. Thấy biết nhiệm mầu không phải thấy biết khôn ngoan lanh lợi khéo léo, mà như trước ví dụ tấm gương sáng cái gì cũng hiện rõ hết, mà khi đem vật đi thì không dính lại một cái gì cả. Đó là nhiệm mầu, cũng đừng lầm tưởng nhiệm mầu là nó có phép lạ huyền bí v.v... Nó chỉ là cái thể trong sáng hiện đủ các hình tướng mà không bị các hình tướng làm nhiễm dơ. Pháp thân ấy không gì sánh bằng, nó trong sáng thật là lặng lẽ thanh tịnh chỉ có người dụng công tu mới cảm nhận được và mới hiểu được những lời giải thích này. Như khi chúng ta ngồi thiền tâm không có một niệm nhỏ nhiệm dấy lên, chỉ thuần trong sáng thanh tịnh nên một tiếng động nhỏ cũng nghe, những hình ảnh trước mắt đều thấy, những gì xảy ra chung quanh đều biết rõ ràng. Đó gọi là không hình tướng mà luôn luôn được thanh tịnh. Do thanh tịnh mà không hình tướng nên mọi sự vật có hình tướng như núi sông, quả đất v.v... đem so sánh với Pháp thân đều không bằng. Bởi những vật có hình tướng thì vô thường sanh diệt, Pháp thân thì không vô thường sanh diệt. Nếu chúng ta hằng sống với Pháp thân thanh tịnh thì không bị ngoại cảnh làm nhiễm dơ, như vậy có giải thoát không? Pháp thân không hình tướng thì dính mắc vào đâu, cái gì trói buộc được? Và, không còn một niệm nhỏ nhiệm thì đâu có dấy động, không động nên không sanh diệt, không sanh diệt là giải thoát sanh tử. Vì còn theo niệm là còn tạo nghiệp, còn đi trong sanh tử luân hồi. Không có một niệm nhiễm dơ là sống với Pháp thân thanh tịnh là được giải thoát sanh tử luân hồi. Giải thoát là Pháp thân giải thoát, cho nên ai sống được với Pháp thân là sống với cái thể giải thoát.
Kế đến Ngài nói Pháp thân không hình tướng mà nó hay hiện hình tướng. Như tấm gương sáng nếu trước nó không có người vật thì trong gương không có hình tướng người vật, nếu trước gương có người vật thì bóng người vật hiện đầy đủ trong gương. Giả sử có tấm gương rộng một thước vuông để ở đằng kia thì hai trăm người ngồi trong giảng đường này có hiện bóng trong gương không? Sao diện tích nó nhỏ mà chứa được hai trăm người? Để thấy rằng tấm gương trong sáng không dính bụi nên hình ảnh người vật hiện trong gương không chướng ngại. Nếu tấm gương bị phủ một lớp bụi đen dày thì hình ảnh người vật không thể nào hiện được. Gương trong sáng không dính bụi nên hiện được tất cả hình tướng, cũng vậy Pháp thân trong sáng không hình tướng mà hiện ra muôn ngàn hình tướng đó là theo duyên mà ứng hiện. Nhưng khi thành các hình tướng thì gọi là Ứng thân chớ không gọi là Pháp thân. Theo ngài Chân Nguyên Ứng thân thì có nghiệp báo tốt xấu, từ Pháp thân mà ứng hiện ra Báo thân có mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm v.v... đó gọi là Ứng thân. Theo nghiệp lành nghiệp dữ thọ thân tốt xấu, giàu nghèo v.v... đó là Báo thân. Như vậy Ứng thân, Báo thân và Pháp thân không rời nhau. Ứng thân là do Pháp thân ứng hiện ra cái thấy nghe hiểu biết gọi là Ứng thân. Cho nên từ nơi thấy nghe hiểu biết chúng ta nhận ra Pháp thân. Đó là chỗ mà các Thiền sư dùng mọi phương tiện để đánh thức chúng ta nhận ra ngay nơi thân này Pháp thân luôn luôn ứng hiện, cho nên mắt thấy sắc, tai nghe tiếng là do Pháp thân ứng ra nơi mắt nơi tai, các căn khác cũng thế. Như vậy sáu căn tiếp xúc với sáu trần đều có Pháp thân ứng hiện nơi sáu căn. Muốn chỉ Pháp thân chúng ta làm sao chỉ? Ví dụ trong hư không có gió, có người hỏi gió ở đâu, làm sao chỉ? Nếu thấy cái màn phất phơ bảo đó là gió thì đúng hay sai? Gió không phất phơ, song bản chất của gió là động, do đó thấy cái màn phất phơ chúng ta biết có gió. Gió ở khắp chỗ nhưng gió không tướng mạo làm sao chỉ? Cho nên chỉ là chỉ cái mà gió tác động như cái màn phất phơ. Gió tác động vào cây thông, chúng ta thấy cành thông đong đưa. Chúng ta nương vào tướng lay động của cành thông mà biết có gió. Cũng thế ngay nơi sáu căn Pháp thân ứng ra thấy, nghe, ngửi, nếm v.v... mà biết Bản thể đang hiện hữu, không nên tìm kiếm ở đâu xa.
Hội rằng:
Vốn là một tinh minh. Chia thành sáu hòa hợp. Thu sáu hòa hợp lại, vốn là một tinh minh.
Lại nói: Sao gọi là Hóa thân? Đã vào Ứng thân, đi đứng nằm ngồi, thấy nghe hiểu biết, làm mọi thứ việc lành, cho đến trăm ngàn pháp môn, phương tiện diệu hạnh, tùy cơ biến hóa, ứng dụng không cùng, gọi đó là Hóa thân. Tuy riêng có ứng và hóa, cũng đều từ Pháp thân lưu xuất, nên nói: Ba thân vốn chính là một thân. Kinh nói: “Hàng thượng căn rõ được một, thì muôn việc đều xong.” Nếu như còn ngờ vực, hãy nghiệm xét cho tường tận nơi lý.
Đoạn này Ngài dẫn kinh Lăng Nghiêm. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật gọi sáu căn là sáu hòa hợp, sáu hòa hợp đó gốc từ một tinh minh, một tinh minh chia thành sáu hòa hợp, từ sáu hòa hợp trở về vốn là một tinh minh (Pháp thân). Cho nên trong khi tu, tâm chúng ta kẹt ở cái thấy, cái nghe, cái ngửi... thì nó thuộc về một trong sáu hòa hợp. Khi tâm chúng ta an định rồi thì không còn mắc kẹt ở căn nào, mà nó trùm hết. Thấy nghe hiểu biết hiện tiền không kẹt ở căn nào là trở về một tinh minh. Như vậy một tinh minh nếu kẹt thì thành sáu hòa hợp. Sáu hòa hợp nếu biết gỡ thì trở về một tinh minh. Nói một chớ thật ra khi sáu đã gỡ thì một cũng không còn.
Trước nói ba thân: Pháp thân, Ứng thân, Báo thân chớ chưa nói Hóa thân. Đoạn này giải thích về Hóa thân. Hóa thân là trong mọi hoạt động đi đứng nằm ngồi, làm tất cả việc lành, tu tất cả các pháp môn đều là diệu hạnh của Hóa thân. Hay nói cách khác tùy cơ ứng hóa thì gọi là Hóa thân. Tuy có ứng hóa riêng khác nhưng đều từ Pháp thân lưu xuất. Pháp thân ứng ra theo Báo thân, tùy theo Báo thân mà ứng ra sáu căn, tùy theo sáu căn mà hành động những điều hay điều tốt, như sự tu hành v.v... là Hóa thân. Như vậy Hóa thân là ngọn của Ứng thân, mà gốc của Ứng thân lại là Pháp thân. Cho nên hàng thượng căn nhận được Pháp thân thì rõ Ứng thân, Báo thân, Hóa thân cũng đều gốc từ đó mà ra.
Bởi Chân Phật thì không hình, Chân kinh thì không quyển, bao la pháp giới, tròn đồng thái hư, chẳng thêm chẳng bớt, không thiếu không dư, người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành, bản tánh Di-đà, Chân kinh Bát-nhã, kho báu nhà mình, nguyên là vật tự có. Song tánh đạo không khác, sắc và không nhất như, viên dung cả pháp giới, đối diện ở trước mắt, ứng vật hiện hình như trăng trong nước.
Ngài nói thêm về cái thể thênh thang của Pháp tánh. Chân Phật chỉ cho Pháp thân không hình tướng, Chân kinh chỉ cho Pháp tánh chân thật không tướng mạo, nên nói không quyển nhưng nó bao trùm cả pháp giới, nó không thiếu, không dư, ai ai cũng tròn đủ hết. Như hiện giờ thân tứ đại của chúng ta, người ốm thì ba, bốn chục ký, người mập thì sáu bảy đến tám chín chục ký, còn chiều cao thì cao lắm là hai thước. Nếu người nào to lớn thì bằng hòn đá lớn trong núi là cùng. Nhưng chúng ta có một cái thể trùm cả pháp giới, trùm cả hư không thì to cỡ nào? Như vậy, sự to lớn của thân tứ đại thì có chừng mực, có giới hạn, còn sự to lớn của Tâm thể thì không giới hạn vô tận vô biên, không thể tính lường. Thế mà chúng ta lại quên chỉ nhớ cái thân mấy chục ký, cao một vài mét, rồi cho là thật là quí. Cái thân mấy chục ký này chỉ sống mấy chục năm, còn Pháp thân thì tuổi thọ vô lượng vô biên. Nếu chúng ta là người ham sống thì nên sống với thân nào? Cái thân sống mấy chục năm có nghĩa lý gì đối với Pháp thân bất tử? Vậy mà có nhiều người chẳng chịu sống với cái thân bất tử, mà chỉ thích sống với cái thân tạm bợ, lúc nào cũng lo gìn giữ lo sợ mất nó. Quên thân tuổi thọ vô lượng rộng lớn vô biên, mà bám víu và hài lòng thỏa mãn với cái thân tạm bợ để tiếp tục gây tạo nghiệp khổ, bỏ thân này thọ thân khác, đi mãi trong luân hồi sanh tử. Do đó chư Phật thấy thương chúng ta ngu muội có cái thể to lớn bất hoại mà không nhớ, chỉ nhớ lo cho cái thân bé nhỏ tạm bợ vô thường, chớ không phải Phật thương chúng ta thiếu thốn về ăn mặc hay dáng vẻ lùn xấu. Thế nên Phật dạy tu để trở về với cái thể trùm khắp bất sanh bất diệt của chúng ta, thể ấy còn gọi là Niết-bàn vô sanh. Không còn sanh thì đâu có tử nên gọi là giải thoát sanh tử. Song giải thoát sanh tử là giải thoát cái gì? Là không vì cái thân tạm bợ mà tạo những nghiệp nhân sanh tử. Khi dứt hết những mầm sanh tử rồi chúng ta hằng sống với Pháp thân bất sanh bất diệt của mình gọi là giải thoát sanh tử. Nên biết cái không sanh tử ở ngay nơi mình chớ không phải tìm kiếm ở đâu xa, cho nên nói Bản tánh là Di-đà tức là chỉ cho Tự tánh không sanh diệt, Chân kinh Bát-nhã là chỉ cho trí tuệ sẵn có của mình, kho báu nhà mình sẵn đủ vậy đi tìm kiếm ở đâu cho nhọc. Cái Tự tánh ấy là không sắc, do không sắc nên “sắc và không” không hai. Tùy theo vật hiện hình, ví như mặt hồ nước trong thì bóng mặt trăng hiện.
Kệ nói:
Chẳng biết báu trong áo,
Vô minh say tự tỉnh.
Trăm hài đều rã tan,
Một vật vững sáng mãi.
Âm:
Bất thức y trung bảo,
Vô minh túy tự tỉnh.
Bách hài câu hội tán,
Nhất vật trấn trường linh.
Chẳng biết báu trong áo, vô minh say tự tỉnh.
Nghĩa là không biết mình có hòn ngọc báu ở trong túi áo của mình, đó là vì vô minh say mê, nhưng khi thức tỉnh mới biết trong áo mình có hòn ngọc quí. Ý hai câu này dẫn kinh Pháp Hoa ví dụ anh chàng say được người bạn cho hạt châu cột trong chéo áo để đem ra dùng xài. Nhưng anh chàng vẫn cứ say không tỉnh, không biết mình có hạt châu trong chéo áo, nên vẫn nghèo đời khổ sở. Sau gặp lại bạn chỉ trong chéo áo anh có hạt châu, anh lấy ra dùng hết kiếp nghèo đói.
Trăm hài đều rã tan, một vật vững sáng mãi.
Trong thân tứ đại do tất cả các phần gân, xương... kết hợp lại, một ngày nào đó nó sẽ tan nát không còn, nhưng trong đó có một vật trong sáng không bao
giờ hoại.
Ý bài kệ nói nơi chúng ta có hòn ngọc quí, vì chúng ta mê say quên hòn ngọc quí có sẵn nơi mình. Cũng như thân này là thân tạm bợ nhưng trong cái tạm bợ đó có cái trong sáng còn hoài không mất.
Áo là Sắc thân, báu là Tự tánh. Trước kia Lục tổ Huệ Năng đốn ngộ Tự tánh, tâm châu linh bảo, bèn đáp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn rằng: “Tất cả muôn pháp chẳng lìa Tự tánh!”
Đâu ngờ Tự tánh vốn tự thanh tịnh!
Đâu ngờ Tự tánh vốn chẳng tự sanh diệt!
Đâu ngờ Tự tánh vốn tự đầy đủ!
Đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp!
Đây nói áo là Sắc thân, viên ngọc báu là Tự tánh. Cho nên Lục tổ Huệ Năng mới nói tất cả muôn pháp chẳng lìa Tự tánh và khi nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” Ngài liền đại ngộ, và la lên:
Đâu ngờ Tự tánh vốn tự thanh tịnh!
Đâu ngờ Tự tánh vốn chẳng tự sanh diệt!
Đâu ngờ Tự tánh vốn tự đầy đủ!
Đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp!
Lục Tổ do nhận được Tự tánh của mình vốn tự thanh tịnh, chẳng sanh chẳng diệt, đầy đủ tất cả, hay sanh tất cả, nên Ngũ Tổ ấn chứng cho Ngài đã ngộ được Bản tánh; ngộ được Bản tánh tức là kiến tánh. Bản tánh sẵn có mà lâu nay quên, bây giờ chợt nhận ra nên Ngài dùng chữ đâu ngờ. Như vậy người tu mà nhận ra được Bản tánh của mình thì từ đó về sau sự tu hành mới được an ổn.
Hội rằng:
Tánh đủ mọi lý mà ứng với muôn sự.
Hỏi đáp đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Tham học đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Tụng kinh đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Niệm Phật đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Nói năng đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Gậy hét đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Cơ duyên đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Thế Tôn giơ cành hoa đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Ngài Ca-diếp mỉm cười đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Lâm Tế hét, Đức Sơn đánh, Ngưỡng Sơn tướng tròn, Thạch Củng giương cung, Đạo Ngô múa hốt, cơ duyên của chư Tổ đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
“Hội rằng” nghĩa là hiểu rằng. Tự tánh của con người đủ ở mọi lý, ứng hiện với muôn vật. Đây giải thích cho thấy Tự tánh con người xuất hiện từ chỗ nào
qua các câu hỏi.
“Hỏi đáp đó là gì?” Tức là biết hỏi biết đáp đó là ai? Đáp: “Chỉ là Tự tánh.” Do Tự tánh ứng ra mới biết hỏi biết đáp. Rồi tham học tụng kinh, niệm Phật, nói năng là do Tự tánh ứng hiện mới biết tham học, tụng kinh, niệm Phật, nói năng. Nếu không có Tự tánh (Tánh giác) thì không có ai ứng hiện để làm những việc đó, thân người chỉ là một khối máu thịt vô tri không biết làm gì cả. Bây giờ xa hơn một chút là: gậy hét, cơ duyên, Thế Tôn giơ cành hoa, ngài Ca-diếp mỉm cười, Lâm Tế hét, Đức Sơn đánh, Ngưỡng Sơn tướng tròn, Thạch Củng giương cung, Đạo Ngô múa hốt, đều do Tự tánh (Tánh giác) ứng hiện, nên Phật và chư Tổ mới hành xử như thế. Tất cả đều lưu xuất từ Tự tánh. Tự tánh là Phật, Thiền tăng hỏi thế nào là Phật, Tổ đánh một cái đau điếng là chỉ ông Phật đó. Vì có ông Phật mới biết hỏi, có ông Phật mới biết đánh, có ông Phật mới biết đau. Chủ yếu của các Thiền sư là chỉ thẳng nên không giải thích dông dài. Cũng vậy, hỏi thế nào là Phật, hét một tiếng là chỉ ông Phật đó, vì có ông Phật mới biết hét. Tất cả những hành động khác cũng như thế, các ngài nhằm chỉ thẳng cho chúng ta nhận ra cái chân thật (Tánh giác). Từ lâu chúng ta quen nhận cái giả trên tướng mạo ngôn từ nên thấy các Thiền sư chỉ cái thật qua hành động không ngôn ngữ, chúng ta đâm ra ngờ vực. Bây giờ học hiểu kỹ chỗ này rồi, đọc sách Thiền chúng ta mới không thấy lạ và hết nghi ngờ. Ngày xưa đọc câu chuyện Thiền sư Đả Địa, mỗi khi có người đến hỏi “thế nào là Phật”, Ngài lấy gậy đập xuống đất một cái, không trả lời. Hỏi gì Ngài cũng lấy gậy đập xuống đất, do đó người đời gọi Ngài là Hòa thượng Đả Địa. Đả địa là đánh đất. Tôi có bình một câu thế này: “Muốn thấy mặt nước phẳng trước khi cá ăn mống.” Vì vừa khởi niệm đập một cái là đã thấy rồi. Mặt nước không dấy động tức là mặt nước phẳng, nếu dấy động thì từ mặt nước mà ra chớ không ở đâu xa hết. Như vậy tất cả hành động của các Thiền sư hoặc đánh hay hét... đều nhằm chỉ thẳng Tự tánh cho mình.
Bốn mắt nhìn nhau đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Trưởng lão Câu Chi đưa ngón tay, giơ nắm tay đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Lâm Tế phủi tay áo liền đi đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Khai hoa kết ấn đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Đi đứng ngồi nằm đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Thấy nghe hiểu biết đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Ăn cơm ăn cháo đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Uống nước uống trà đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Đắp y ôm bát đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Nói năng hỏi đáp đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Tạo tác, làm việc đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Im im xét tư duy, nói nói động miệng đó là gì? - Chỉ là Tự tánh.
Qua một đoạn dài trên Ngài cũng chỉ thẳng Tự tánh hiện đầy đủ trong mọi hành động, mọi nói năng mọi cử chỉ, không có gì ngoài Tự tánh. Cho nên các Thiền sư không tốn lời giải thích mà chỉ cần biểu hiện một cử chỉ để chúng ta nhận ra Tự tánh.
Vậy ở đây có ai thiếu Tự tánh không? Không thiếu mà chưa dám nhận, đó là điều đáng tiếc. Tự tánh là tâm vương là vua lại không dám nhận, cứ nhận mấy thứ đạo tặc buồn giận thương ghét và kết thân với chúng, cho nên bị khổ suốt đời. Xét kỹ chúng ta thông minh hay mê muội? Cái chân thật không dám nhận, lại ôm giữ cái giả dối tạm bợ rồi than khổ. Song sự khổ đau ở thế gian này chúng ta xét kỹ thấy nó như trò hề, chớ có đáng gì đâu. Thế mà lắm người cũng khóc lên khóc xuống vì những chuyện phiền não vớ vẩn không đâu, gặp ai cũng than đời tôi sao khổ quá! Tuy nhiên, nếu xét kỹ mỗi người chúng ta đều có một cái không bao giờ khổ, biết như thế rồi thì tự tại vô cùng, sống ở giữa cõi trần này không có gì đáng làm cho mình phiền lòng, không phiền lòng thì có gì khổ sở. Giả sử có ai sân si nói bậy bạ thấy họ là người ôm đạo tặc là người đáng thương, người ấy có vị pháp vương mà không chịu nhận, lại đi rước đạo tặc vào nhà để cho nó phá hết gia sản. Người sân giận nói bậy bạ là người đáng thương chớ đâu đáng buồn, vì trước hết là họ hao tổn khí lực, kế đến là họ hao tổn tâm lực. Như vậy họ lỗ lã rất nhiều chớ có được gì đâu? Thế nên chúng ta biết tu thì đối với những người làm phiền mình, mình thông cảm thương họ chớ không nên buồn họ. Hơn nữa hằng ngày chúng ta gặp biết bao điều không như ý xảy ra, nếu không buông bỏ mà cứ đeo mang những thứ đó để phiền não khổ tâm than trách thì biết bao giờ chúng ta mới giác ngộ? Bởi vì đó là những thứ làm che mờ khuất lấp cái tánh linh giác của chính mình. Xét kỹ trong chúng ta khi phát tâm tu, ai cũng muốn giải khổ, tại sao vào chùa một thời gian chúng ta lại cột trói những thứ lỉnh kỉnh không ra gì vào lòng cho nó khổ thêm. Như vậy muốn hết khổ thì những cái không giá trị như thị phi, phải quấy tốt xấu, buông bỏ hết thì chúng ta mới hết khổ. Chúng ta hết khổ mới mong cứu khổ cho người, còn mình ôm một khối khổ mà nói chuyện đạo lý, khuyên người hết khổ thì không được bảo đảm. Giả sử có người thấy bạn mình phiền não bèn dùng lời đạo lý khuyên họ đừng giận hờn, giận hờn là đau khổ, nhưng khi gặp chuyện trái ý mình nổi giận la om sòm, như vậy người ấy có khổ không? Thế nên chúng ta phải hiểu cho thật thấu đáo điều này, tự mình phải hết khổ mới chỉ dạy nhắc nhở cho người, đó là đúng tinh thần cứu khổ chúng sanh của đạo Phật.
Mật thu lại thì không dấu vết, hiển buông ra thì không cùng tận. Bởi lược bày các cơ chỉ dạy, song đối với diệu lý khó đem nói hết. Cần biết mặc áo ăn cơm, nói năng đối đáp, sáu căn vận dụng, gậy đánh miệng hét, quát mắng khảy tay, đánh phách thổi sáo, tiếng tăm cười nói, cho đến gánh nước bửa củi, nơi nơi toàn bày lý diệu; vo gạo thổi lửa, chỗ chỗ thảy hiện chân cơ. Trăm khéo ngàn hay, cơ huyền lý diệu, tất cả hành động trọn là Tự tánh của mọi người hiển hiện ứng dụng.
Đoạn này Ngài nói khi trở về thể thì Tâm linh giác không có dấu vết, nếu ứng hiện ra diệu dụng thì không cùng tận, cho nên ở đây Ngài lược bày để chỉ dạy chớ chỗ diệu lý của tâm không thể dùng ngôn ngữ nói hết được. Nên nói nó hiển hiện ứng dụng ra mọi hành động như mặc áo ăn cơm, nói năng đối đáp... cho đến vo gạo thổi lửa đều từ Tự tánh mà ứng dụng ra. Như vậy ở chỗ nào chúng ta cũng tu được hết. Thế mà có nhiều người than, chiều nay bận công tác, ngồi thiền không được, mất một buổi tu. Nếu cho rằng ngồi thiền mới tu thì mất, còn biết tu trong mọi hành động thì không mất. Vì trong mọi hành động đều có Pháp thân ứng hiện thì mất cái gì? Chỉ sợ không biết tu chớ không sợ mất thời giờ tu. Nhớ điều này cho kỹ. Biết tu thì giờ nào cũng tu được, cuốc đất, nấu cơm, nhổ cỏ đều tu. Không biết tu thì giờ ngồi thiền chưa chắc đã tu, ngồi đó mà để tâm nhớ nghĩ chuyện đã qua nhớ chuyện sắp tới, hết chuyện người này tới chuyện người kia. Thế nên chúng ta khéo ứng dụng tu thì trường hợp nào tu cũng được. Hiểu như vậy rồi người tu mới tự tại, không than phiền trách móc ai, luôn luôn an ổn trong mọi cảnh thuận nghịch an nguy. Ngày xưa, có vị gánh nước đòn gánh gãy, ngay đó ngộ đạo. Có vị cuốc đất lượm hòn gạch ném trúng cây tre vang tiếng, ngay đó ngộ đạo. Có vị cỡi ngựa đi ngang qua cầu, cầu gãy, ngựa sụp chân té xuống, ngay đó ngộ đạo. Những trường hợp như thế có tu không? Nếu không tu làm sao ngộ đạo? Còn chúng ta ngày nay ngồi thiền giờ này qua giờ kia mà sao không ngộ đạo? Như vậy trong giờ ngồi thiền đó chúng ta tu nhiều hay ít? Tóm lại, nếu tâm chúng ta lúc nào cũng trong sáng hồn nhiên, thì trong một thời gian nào đó cơ duyên đầy đủ chúng ta cũng ngộ đạo, chớ không phải chỉ ngộ đạo trong lúc ngồi thiền.
Tỏ rõ rằng:
Trước kia đã có việc như trên, ngày nay đâu không việc này! Xưa nay thấy tánh thành Phật, chung ngộ Tâm tông Bát-nhã. Tướng mộc tuổi tác chẳng đồng, tánh hỏa trước sau như thế. Ai biết ví dụ này, trí tuệ thật rộng sâu. Pháp tánh hằng không, vốn không số kiếp. Trước sau chỉ một lý, người thông suốt đồng một đường. Cần biết, một tánh linh chân, trong lặng như thái hư; Sắc thân năm uẩn thật như mộng huyễn. Quả là trên đảnh môn đủ mắt, liền biết trên hư không không có hoa. Phật ở Tự tâm, chớ tìm kiếm nơi người được. Nên trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo, Tổ Điều Ngự nói:
Rõ Chân như, tin Bát-nhã, chớ còn tìm Phật Tổ Tây Đông.
Chứng thật tướng, đạt vô vi, đâu nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc.
Khiến người người phản bản hoàn nguyên, cho kẻ kẻ hồi quang tự ngộ. Chỉ chín chắn quán xét sâu xa, rõ được tột người người là Phật, ngộ Tâm tông Phật Phật là người. Xin hãy đều thẳng đó thừa đương, chớ chạy đuổi bên ngoài tìm kiếm!
Ngài nói: Trước kia có việc như trên, ngày nay đâu không việc này. Nghĩa là ngày xưa chư Tổ hét một tiếng đánh một cái mà người xưa ngộ đạo, ngày nay nếu chúng ta khéo nhận thì cũng được như người xưa. Vì xưa hay là nay đều thấy tánh thành Phật, đều ngộ Tâm tông Bát-nhã. Ngài ví như tướng cây nhỏ cây lớn như cây xoài, cây mít, cây ổi... khác nhau, nhưng phơi khô đem đốt vẫn cháy ra lửa, vẫn nóng như nhau. Ai biết ví dụ này thì người ấy có trí tuệ sâu rộng. Lại như quí vị ngồi đây một hai trăm người, mỗi người có hình tướng, suy nghĩ, ngôn ngữ khác nhau mà tánh Phật thì không khác. Hiểu được điều này là người trí tuệ sâu rộng và người có trí thì không dám xem thường ai. Vì đứng về mặt tướng mạo thì có người đẹp người xấu, đứng về mặt học thức thì người học cao người học thấp, về mặt nói năng suy nghĩ thì có người lanh lẹ người chậm chạp... nhưng tánh Phật thì không khác. Hiểu như thế khởi tâm ngã mạn xem thường, hay khởi tâm cung kính mọi người như Bồ-tát Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoa? Ngài gặp ai cũng xá lạy và nói: “Tôi không dám khinh các ngài vì các ngài đều sẽ thành Phật.” Ngài đang là Bồ-tát, mọi người đang là phàm phu, thế mà Ngài không khinh vì biết họ sẽ thành Phật như Ngài. Biết như thế tâm ngã mạn giảm, trí tuệ tăng.
Pháp tánh hằng không, vốn không số kiếp.
Pháp tánh hằng rỗng lặng vốn không có số kiếp. Vì từ lâu chúng ta sống theo vọng niệm nên tạo nghiệp và theo nghiệp thọ báo thân sanh tử luân hồi vô số kiếp. Cái nhân là vọng tưởng không thật, tạo nghiệp thì cái nghiệp cũng không thật, nghiệp không thật thì kết quả thọ thân cũng không thật. Cả ba đều không thật, bây giờ buông vọng tưởng, nhận ra và hằng sống với Pháp tánh thì không tạo nghiệp, không thọ thân luân hồi sanh tử thì số kiếp cũng không. Nếu người thông suốt lý này thì cùng chung một đường. Tức là biết cái Tánh chân thật linh thiêng mầu nhiệm nó trong lặng như thái hư, còn Sắc thân năm uẩn vốn như mộng huyễn. Nếu ai sống sáu bảy chục tuổi ôn lại cuộc đời đều thấy như mộng huyễn. Giống như đêm ngủ nằm mộng, sáng thức dậy ôn lại giấc mộng thì có đáng kể gì? Thế mà cứ tưởng là thật. Cho nên nói “quả là trên đảnh môn có đủ con mắt liền biết trên hư không không có hoa”. Đảnh môn có đủ con mắt tức là con mắt thứ ba, con mắt trí tuệ. Sở dĩ nhìn trên hư không chúng ta thấy có hoa đốm là tại con mắt bệnh. Nếu con mắt không bệnh thì thấy hư không không có hoa. Con mắt không bệnh là chỉ cho trí tuệ mở sáng. Người tu khi trí tuệ mở sáng thì biết rõ Phật ở Tự tâm, không tìm kiếm ở bên ngoài. Sau đây Ngài dẫn hai câu trong bài Phú Cư Trần Lạc Đạo của Tổ Điều Ngự:
Rõ chân như, tin Bát-nhã, chớ còn tìm Phật Tổ Tây Đông.
Chứng thật tướng, đạt vô vi, đâu nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc.
Biết được như vậy để chúng ta trở về nguồn gốc của mình, quay ánh sáng chiếu soi lại mình để ngộ được Pháp thân. Quán sát chín chắn như thế để rõ rằng người người là Phật, mà Phật Phật đó gốc từ người. Vậy Phật và người không hai, rời người không có Phật, rời Phật không có người. Như vậy chúng ta và Phật gần không xa. Thế mà cứ lạy Phật hoài, lạy đến chai cả đầu gối. Sở dĩ chúng ta phải lạy Phật nhiều là tại chúng ta quên tánh Phật của chính mình, nên phải nhờ đức Phật ngồi trên bàn chứng minh cho chúng ta lạy để nhớ lại tánh Phật của chính mình. Lạy Phật để nhớ mình có tánh Phật chớ không phải lạy cầu xin Phật cho phước. Vậy lâu nay chúng ta lạy Phật với ý nghĩa gì? Hiểu như thế mới thấu được ý nghĩa tu là xoay lại mình chớ không phải chạy ra bên ngoài kiếm tìm. Hãy ngay nơi đây mà thừa đương.
Sau đây là những bài kệ Ngài chỉ thẳng cho chúng ta nhận ra tánh Phật của chính mình.